ÁP DỤNG
PHƯƠNG PHÁP HÀM GREEN
TRONG NGHIÊN CỨU SÓNG THẦN Ở VIỆT
CAO
ĐÌNH TRIỀU1, FABIO R.2, MAI XUÂN BÁCH1,
THÁI ANH TUẤN1
1Viện
Vật lý Địa cầu, Viện KH&CN Việt Nam, 18
Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội;
2Đại
học tổng hợp Trieste, Italia
Tóm tắt: Trong khuôn
khổ bài báo này các tác giả áp dụng phương pháp hàm
Green trong nghiên cứu lan truyền sóng thần ở
Biển Đông Việt
1. Với
kịch bản chấn cấp 8,5 độ Richter xảy
ra tại đới Manila sẽ gây sóng thần đạt
2,5 m tại Quảng Ngãi sau 150 phút; tại Hoàng Sa là 2,5 m sau
75 phút; tại Trường Sa là 2,8 m sau 75 phút. Động
đất với chấn cấp 8,85 độ Richter có
thể tạo nên sóng thần có độ cao lớn
nhất tại Quảng Ngãi là 5,5 m và sau 150 phút, giảm
dần về phía Cà Mau và Quảng Ninh (dưới 3,0 m);
tại quần đảo Hoàng Sa là 6,0 m và sau 70 phút; và
quần đảo Trường Sa sóng cao gần 7,0 m và xuất
hiện sau 70 phút.
2. Ở khoảng cách rất
gần nên các đới như Bắc Hoàng Sa, Kinh tuyến
1100, Thuận Hải - Minh Hải, Cảnh Dương
- Phú Quý, Palawan có thể gặp sóng cao tại
đường bờ và thời gian tới của sóng
lại ngắn. Chẳng hạn, động đất
với chấn cấp 7,5 xảy ra tại đới
Bắc Hoàng Sa có thể tạo nên sóng thần có độ
cao trên 2,0 m tại Hoàng Sa; động đất mạnh
7,5 độ Richter xảy ra tại đứt gãy Thuận
Hải - Minh Hải sẽ gây sóng thần với độ
cao 2,5 m tại Vũng Tàu chỉ sau 25 phút.
3. Nguy
hiểm sóng thần lớn nhất, đạt độ
cao trên 10 m xuất hiện tại vùng biển Quảng Ninh
và Vinh nếu diễn ra kịch bản động
đất tại Tây Hải Nam với chấn cấp 7,5
độ Richter và trong trường hợp ba lớp.
I. MỞ ĐẦU
Trước thảm họa
sóng thần 26-12-2004 gây ra bởi động đất
Mw9,0 ở
Muộn hơn, vào những năm
90, vấn đề sóng thần được một
số nhà khoa học quan tâm nghiên cứu [6-9], đưa ra
một số nhận định về sóng thần trong
vùng Biển Đông và ảnh hưởng đến vùng
bờ biển nước ta. Vùng quần đảo
Trong khuôn khổ bài báo này, chúng
tôi giới thiệu một thuật toán mới nghiên
cứu đánh giá mức độ ảnh hưởng
của sóng thần tới bờ biển và hải
đảo Việt
- Tsu.par
tính mô phỏng lan truyền sóng thần trong một vùng biên
có mực nước sâu không thay đổi (H = const). Ưu
điểm của chương trình này là tính
được cả cho những vùng nước nông
hoặc đối với những nguồn động
đất ven bờ.
- Tsu2d.par
tính mô phỏng lan truyền sóng thần trong điều
kiện địa hình đáy biển không bằng
phẳng. Nó cho phép chúng ta đưa vào bản đồ
địa hình đáy biển khu vực sóng truyền qua.
- Geosp.par
tính toán thời gian tới và độ cao sóng đến
trên cơ sở mô hình 2D đáy biển.
Bản đồ địa hình đáy
biển tỷ lệ 1/2.000.000 được đưa vào
sử dụng trong tính toán. Các kịch bản động
đất lấy đới hút chìm
II. PHƯƠNG PHÁP HÀM GREEN
Sự xáo động của
đáy biển tạo nên cột nước và lan truyền
đi tất cả các phương. Trong trường
hợp mô hình là khối chất lỏng đồng
nhất vô hạn trên khắp một nửa không gian đàn
hồi, xuất phát từ biểu thức hàm Green
tương ứng với một điểm lực theo
phương thẳng đứng trên mặt tự do trong
trường hợp dịch chuyển của đáy
biển theo phương thẳng đứng và điểm
lực nằm ngang trong nửa không gian. Mô hình nguồn
đơn giản (nguồn điểm) sau đó
được mở rộng ra mô hình nguồn có dạng
hình hộp chữ nhật (phù hợp hơn với cơ
cấu chấn tiêu) với nửa không gian giới hạn
bởi đường biên là đường bờ [3, 13-15]
là mô hình được áp dụng trong tính toán lan truyền
sóng thần tại Biển Đông.
1. Kích hoạt
sóng thần từ nguồn hữu hạn
Ta xét một đứt gãy hình
hộp chữ nhật với chiều dài L và rộng W và xét
một trong hai dịch trượt (Hình 1): trượt theo
góc cắm (dip-slip) hoặc trượt bằng (strike-slip). Toạ độ x và h được xác
định với tâm tại trung tâm đứt gãy, như
vậy nguồn cơ sở tại một điểm (x, h) trên đứt gãy
có toạ độ (x-xcosd, y-h, h-xsind) [2].
Để
thu được hàm kích hoạt của nguồn hữu
hạn phù hợp với x, y và h
ta lấy tích phân theo x từ tới
và theo h từ
tới
.
Giả sử khoảng
cách r là rất lớn so với kích thước nguồn,
ta thay thế r trong hàm mũ bằng . Khi đó ta thu được biểu thức của
hàm kích hoạt cho cả nguồn dịch trượt theo
góc cắm và trượt bằng:
(1)
trong đó g = ksind+ikcosdcosF.
Nếu đứt gãy dịch
trượt theo phương trục y: δ là góc cắm
của đứt gãy; Φ: góc giữa trục x và
phương quan sát; k: hằng số;
Hệ số A và B của
dịch trượt theo góc cắm:
Và đối với trượt
bằng là:
Một vài ví dụ kết
quả tính toán hàm kích hoạt nguồn mở rộng
dịch trượt theo góc cắm được trình bày
trong Hình 2 với độ sâu nguồn 10 km. Bề rộng
W gần như không làm thay
đổi biên độ trong khi chiều dài L gây nên suy giảm biên
độ cực đại, song lại tăng tại
tần số cao. Thực tế là khi L tăng thì một
trong hai đầu mút của đứt gãy gần với
bề mặt hơn và rút cục cắt thủng đáy
biển làm tăng hàm lượng tần số cao.
Hình 1. Hình học
của nguồn mở rộng
2. Kích hoạt sóng
thần trong lớp nước nửa vô hạn
Để hiểu biết
về tác động của sóng thần tới đường
bờ biển, ta xét bài toán lan truyền sóng thần trong môi
trường lớp nước nửa vô hạn.
Ta xét một vịnh
nước được giới hạn bởi:
(2)
Hình dạng của mô hình
được trình bày trong Hình 3. Một ranh giới của
góc cắm là biên của vịnh tại . Sóng thần truyền dọc theo trục x, được sinh ra
bởi một nguồn động đất dịch
trượt theo góc cắm tại vị trí Xs= (0, 0
, H+h). Đối với nguồn như vậy, trục x mô tả một trục
đối xứng và phương lan truyền cực
đại.
Hình 2. Hàm kích
hoạt của nguồn mở rộng. Chiều dài L và
chiều rộng W biến đổi.
Trong trường hợp này trường
sóng thần không tính toán được trên cơ sở
sự khác biệt của lực giản đơn nằm
ngang và thẳng đứng, bởi vì tích phân không thể
tính toán được trong hình thái giới hạn khép kín mà
phải sử dụng phép tích phân số. Việc lấy
tích phân trong công thức lý thuyết được giới
hạn bởi ranh giới nằm ngang, -X0<x<¥, -¥<y<¥, z = H, và
trên biên thẳng đứng, x =
-X0, -¥<y<¥, 0<z<H.
Thành phần pháp tuyến
của dịch chuyển trên đáy biển có thể khác so
với trường hợp mặt phẳng nằm ngang vô
hạn, nhưng khi h ≤ H
ta có thể cho rằng sự dịch chuyển trên biên
nằm ngang là gần như trên mặt phẳng nằm
ngang vô hạn.
Hình 3. Hình
học mô hình lớp nước nửa vô hạn của
vịnh với ranh giới bậc thẳng đứng
Trước
hết ta xét trường sóng thần dịch chuyển trên
biên ngang W(x,y). Điểm
quan sát M ở khoảng cách r từ chấn tâm trên
trục x. Nếu x là một điểm gần
nguồn, ở đó W(x,y)
không triệt tiêu, ta cho rằng r
≥ x, như vậy khoảng cách x từ M sẽ là r-x.
Khi đó trường sóng thần lan truyền theo
phương ngang có thể được viết như
sau:
(3)
Tích phân bên trong có dạng:
(4)
Tích phân có thể
định bằng số.
Trường sóng thần gây
nên bởi dịch trượt ranh giới thẳng
đứng có thể xác định bằng phương
thức tương tự. Cho x0
là toạ độ của ranh giới thẳng
đứng, (x0= - X0) và U(x,y) là dịch chuyển ngang, ta có:
(5)
Tích phân trong cùng cũng có
thể được tính trong hình thể đóng kín:
(6)
Cho rằng dịch
chuyển ngang trên biên đứng ở độ sâu z
xấp xỉ dịch chuyển ngang ở đáy từ
nguồn có độ sâu h+H-z.
Bởi vậy tích phân ngoài có dạng:
(7)
Tích phân này đã
được tính bằng số.
Từ các công
thức trên ta thu được:
(8)
(9)
Và hàm dao động
thuỷ triều đầy đủ có dạng:
(10)
Hình 4. Hàm kích hoạt của nguồn dịch trượt
theo góc cắm tại khoảng cách khác nhau từ bờ biển
thẳng đứng được tính toán với từng
bước mô hình.
Ghi chú: Khoảng cách từ
đường bờ (km), vị trí trong đất
liền. Nguồn dịch trượt theo góc cắm
với góc nghiêng 450 và momen địa chấn 1013Nm,
bề dày của lớp chất lỏng 2 km.
Theo kết quả
trên Hình 4, ta thấy nếu nguồn được di
chuyển từ đại dương mở tới gần
bờ biển, biên độ cực đại bị suy
giảm, nhưng lượng tần số cao không
đổi; khi nguồn được dịch chuyển từ
đất liền biên độ cực đại
giảm nhanh, nhưng lượng tần số cao được
khuếch đại và có thể còn lớn hơn nguồn
ngoài khơi. Trên thực tế, sóng thần được
kích hoạt không chỉ bởi dịch chuyển đáy mà
còn bởi dịch chuyển của ranh giới thẳng
đứng trải dài từ đáy đến bề
mặt.
Hình 5. Băng triều tổng hợp, được tính
toán cho các khoảng cách khác nhau của nguồn tới
bờ biển dạng bậc. Nguồn là một cặp ngẫu
lực (double couple) dịch trượt theo góc cắm
với góc nghiêng 450 và momen địa chấn 1013Nm,
bề dày lớp lỏng 2 km.
Một mô hình thực tế
hơn mô tả một vịnh nước nửa vô
hạn giới hạn bởi một ranh giới nghiêng,
như độ sâu nước giảm dần và bằng 0
tại đường bờ (Hình 6). Đáy gồm hai
mặt: một nửa không gian nằm ngang: X0< x <¥, -¥< y <¥, z = H, và một mặt nghiêng: X1< x < X1+S,-¥< y <¥, 0< z <H.
Theo mô hình này thì tích phân trong
được tính bằng số.
Từ đó ta có công thức
cho mô hình mặt nghiêng:
(11)
Tích phân được tính
bằng số.
Hình 6. Hình
dạng của vịnh nước nửa vô hạn ranh
giới nghiêng.
Hàm đầy đủ
của dao động triều có dạng:
(12)
3. Mô hình
phẳng phức tạp (không đồng nhất)
Mô hình
sóng triều tổng hợp lan truyền trên cấu trúc
phức tạp của đáy đại dương có
dạng:
(13)
Chúng
ta có thể thay thế biểu thức nguồn với bất kỳ hàm kích hoạt nào đã
tính toán trước với phương pháp hàm Green.
Để
biểu thức có giá trị, bề mặt độ sâu
của biển trong lân cận của chấn tâm
được coi là phẳng, cấu trúc rắn gần tâm
đồng nhất giống như trong mô hình đã sử
dụng cho tính toán hàm kích hoạt bằng phương pháp
hàm Green.
III. NGUY CƠ SÓNG THẦN ẢNH
HƯỞNG TỚI BỜ BIỂN VÀ HẢI ĐẢO
VIỆT
1. Kịch
bản là các nguồn được dự báo trước
có nguy cơ động đất gây sóng thần ảnh
hưởng tới bờ biển và hải đảo Việt
Nam
Trong
khuôn khổ bài viết này, chúng tôi áp dụng thử
nghiệm tính toán cho sáu nguồn phát sinh động
đất với các kịch bản như sau:
1.
Đới hút chìm
2.
Đứt gãy Bắc Hoàng Sa (7,5 và 8,0);
3.
Đứt gãy Kinh tuyến 1100 (7,0 và 7,5);
4.
Đứt gãy Thuận Hải - Minh Hải (7,0 và 7,5);
5.
Đứt gãy Cảnh Dương - Phú Quý (7,0 và 7,5); và
6.
Đứt gãy
Kết
quả cho thấy:
-
Nếu xảy ra động đất tại đới
Manila với chấn cấp 8,0 độ Richter thì có
thể gây sóng thần cao 0,8 m tại bờ biển
Quảng Ngãi (khoảng cách 1120 km) sau 150 phút kể từ khi
xảy ra động đất; tới Hoàng Sa (khoảng
cách 714 km) sau 75 phút với độ cao tối đa 0,9 m; tới
Trường Sa (khoảng cách 697 km) sau 75 phút và với
độ cao 0,9 m.
- Động đất
với chấn cấp 8,5 độ Richter tại
đới Manila thì sẽ có sóng thần tại Quảng
Ngãi với độ cao tối đa là 2,5 m sau 150 phút; tại
Hoàng Sa là 2,5 m sau 75 phút; tại Trường Sa là 2,8 m sau 75
phút.
- Động đất với
chấn cấp 8,85 độ Richter tại đới Manila
có thể tạo nên sóng thần có độ cao tại
một số vị trí bờ biển và hải đảo
Việt Nam như sau: Quảng Ninh, cao 3,2 m và thời gian
sóng tới sau động đất là 240 phút; Hải Phòng
– 3,3 m và 235 phút; Nghệ An – 3,4 m và 230 phút; Quảng Bình – 4,5
và 190 phút; Huế – 4,5 m và 170 phút; Đà Nẵng – 4,2 m và 160
phút; Quảng Ngãi – 5,5 m và 150 phút; Bình Định – 5,4 m và 120
phút; Khánh Hoà – 4,8 m và 120 phút; Bình Thuận – 4,3 m và 160 phút;
Vũng Tàu – 3,8 m và 200 phút; Cà Mau – 3,0 m và 260 phút; quần
đảo Hoàng Sa – 6,0 m và 70 phút; và quần đảo
Trường Sa – 7,0 m và 70 phút.
- Động đất với
chấn cấp 7,5 xảy ra tại đới Bắc Hoàng
Sa có thể tạo nên độ cao sóng thần tại:
Đà Nẵng (khoảng cách 785 km) là xấp xỉ 0,8 m,
đến sau 120 phút; Hoàng Sa là gần 1,0 m sau 40 phút. Nếu
chấn cấp là 8,0 độ Richter thì: tại Đà
Nẵng sóng cao 1,5 m đến sau 115 phút và tại Hoàng Sa là trên
2,0 m.
- Nếu động
đất với chấn cấp 7,5 độ Richter
xảy ra tại đứt gãy Kinh tuyến 1100 thì
sẽ gây sóng thần trên 1,0 m tại Vũng Tàu (khoảng
cách 342 km). Trong khi nếu động đất tương
tự xảy ra tại đới Thuận Hải - Minh
Hải thì độ cao của sóng thần đến
Vũng Tàu (khoảng cách 42 km) có thể trên 2,5 m chỉ sau
25 phút.
- Bờ biển tỉnh Bình
Thuận chịu tác động của động
đất từ đới Phú Quý - Cảnh Dương
(khoảng cách 132 km) với chấn cấp 7,5 độ
Richter sẽ gặp sóng thần có độ cao 1,5 m,
đến sau 100 phút. Cũng động đất như
vậy sẽ gây sóng thần cao 0,5 m tại Trường Sa
(khoảng cách 574 km) sau 80 phút.
- Động đất 7,5
độ Richter xảy ra tại đới Palawan sẽ
gây sóng thần cao 0,8 m tại Vũng Tàu (khoảng cách 1030
km) sau 190 phút. Trong khi đó, nếu động đất
8,0 độ Richter sẽ có độ cao 1,4 m sau 190 phút.
- Đảo Trường Sa
sẽ chịu tác động của sóng thần
đến từ Palawan (khoảng cách 304 km) với
độ cao là 1,2 m đến sau 35 phút và 1,8 m sau 35 phút,
tương ứng với động đất 7,5 và 8,0
độ Richter.
-
Độ sâu chấn tiêu nằm trong lớp rắn thứ
nhất sẽ có cường độ sóng thần lớn
hơn đối với trường hợp độ sâu
chấn tiêu nằm trong lớp rắn thứ hai.
Cường độ sóng thần giảm nếu tăng
khoảng cách chấn tâm và đề cập tới
hiệu ứng địa phương (hiệu ứng thay
đổi độ sâu đáy biển). Bề dày của
lớp nước tác động trực tiếp
đến chiều cao và thời gian tới của sóng
đến: bề dày lớp nước tăng thì vận
tốc sóng tăng và thời gian sóng đến sẽ
giảm. Ngược lại, nếu bề dày lớp
nước giảm thì thời gian đến của sóng
sẽ chậm hơn và độ cao sóng cũng nhỏ
hơn.
7a- |
7b- |
Hình 7. Độ
cao và thời gian sóng lan truyền đến bờ biển
tỉnh Quảng Ngãi (7a, 7b là các kịch bản ứng
với động đất xảy ra với M = 8,0 và 8,5
độ Richter tại trung tâm đới
2. Kịch
bản là các trận động đất xảy ra và có
chấn cấp được dự báo là có nguy cơ gây
sóng thần ảnh hưởng tới bờ biển và
hải đảo Việt Nam
Theo kịch
bản này chúng tôi chọn 3 vùng nguồn là nơi đã
xảy ra động đất (Bảng 1). Đối
với mỗi vùng nguồn chúng tôi chọn 2 kịch
bản: nguồn 2 lớp (độ sâu ranh giới phía
dưới của lớp rắn lớn hơn độ
sâu của điểm nguồn), 3 lớp (độ sâu
của điểm nguồn lớn hơn độ sâu
của ranh giới phía dưới của lớp rắn
đầu tiên). Chấn cấp của động
đất được lấy là 7,5 độ Richter và
độ sâu nguồn điểm là 10 km.
Bảy vị trí tính giá trị thời gian sóng
tới và độ cao của sóng được trình bày
trong các Bảng 2 và 3 gồm: Quảng Ninh, Vinh, Đà
Nẵng, Bình Định, Khánh Hoà, Vũng Tàu và Bạc Liêu.
Bảng 1. Toạ độ của
nguồn và chấn cấp của động đất
đã xảy ra
Thời
gian |
Vĩ độ (B) |
Kinh độ (Đ) |
Chấn cấp |
21-7-1930 |
07,50 |
116,00 |
6,0 |
7-10-1965 |
12,46 |
114,45 |
5,8 |
13-1-1970 |
18,44 |
109,50 |
5,3 |
a. Đối với nguồn 1: Sử dụng bài toán lan truyền sóng thần trong
trường hợp nguồn 1 có chấn cấp
động đất 7,5 độ Richter và ở
độ sâu chấn tiêu 10 km: 1D với hai mức bề
dày lớp nước là 1 km và 2 km; 2D với độ sâu
thực của đáy biển. Điểm sóng tới
được xác định là Bạc Liêu, Vũng Tàu,
Khánh Hoà và Quảng Ninh. Kết quả tính toán
được trình bày trong Bảng 2.
Bảng 2. Kết quả tính toán đối với
nguồn 1 (bài toán 2D)
Nguồn
1, trường hợp 3 lớp |
|||||
Điểm đến |
Độ lớn (Chấn cấp) |
Độ sâu (km) |
Khoảng cách chấn tâm (km) |
Biên độ sóng (cm) |
Thời gian tới (phút) |
Bạc Liêu |
7,5 |
10 |
930 |
120 |
160 |
Vũng Tàu |
7,5 |
10 |
845 |
115 |
140 |
Khánh Hòa |
7,5 |
10 |
785 |
130 |
130 |
Quảng Ninh |
7,5 |
10 |
1722 |
70 |
310 |
Nguồn
1, trường hợp 2 lớp |
|||||
Điểm
đến |
Độ lớn (Chấn cấp) |
Độ sâu (km) |
Khoảng cách chấn tâm (km) |
Biên độ sóng (cm) |
Thời gian tới (phút) |
Bạc Liêu |
7,5 |
10 |
930 |
245 |
160 |
Vũng Tàu |
7,5 |
10 |
845 |
240 |
140 |
Khánh Hòa |
7,5 |
10 |
785 |
270 |
130 |
Quảng Ninh |
7,5 |
10 |
1722 |
155 |
310 |
b.
Đối với nguồn 2: Chấn
cấp động đất là 7,5 độ Richter và
độ sâu chấn tiêu 10 km: trường hợp 1D
với bể dày lớp nước là 3 km và 4 km, và
trường hợp 2D với độ sâu lớp
nước theo giá trị thực biến đổi
địa hình đáy biển. Các điểm sóng
đến là Khánh Hoà, Bình Định, Đà Nẵng và Vinh.
Kết quả tính toán được trình bày trong Bảng 3.
Bảng
3. Kết quả tính toán đối với nguồn 2 (bài toán 2D)
Nguồn 2,
trường hợp 3 lớp |
|||||
Điểm đến |
Chấn cấp |
Độ sâu (km) |
Khoảng cách chấn tâm (km) |
Biên độ sóng (cm) |
Thời gian tới (phút) |
Khánh Hòa |
7,5 |
10 |
556 |
65 |
100 |
Bình Định |
7,5 |
10 |
570 |
60 |
105 |
Đà Nẵng |
7,5 |
10 |
775 |
55 |
140 |
Vinh |
7,5 |
10 |
1155 |
40 |
220 |
Nguồn
2, trường hợp 2 lớp |
|||||
Điểm đến |
Chấn cấp |
Độ sâu (km) |
Khoảng cách chấn tâm (km) |
Biên độ sóng (cm) |
Thời gian tới (phút) |
Khánh Hòa |
7,5 |
10 |
556 |
275 |
100 |
Bình Định |
7,5 |
10 |
570 |
270 |
105 |
Đà Nẵng |
7,5 |
10 |
775 |
245 |
140 |
Vinh |
7,5 |
10 |
1155 |
180 |
220 |
c.
Đối với nguồn 3: Độ
sâu chấn tiêu 10 km, chấn cấp động đất
7,5 độ Richter và 1D với bề dày lớp
nước là 50 m và 100 m, 2D với lớp nước
nhỏ hơn 100 m. Điểm sóng đến là Đà
Nẵng, Vinh và Quảng Ninh. Kết quả tính toán
được trình bày trong Bảng 4.
Bảng
4. Kết quả tính toán nguồn 3 (bài toán 2D)
Nguồn 3, trường hợp 3
lớp |
|
|||||
Điểm đến |
Chấn cấp |
Độ sâu (km) |
Khoảng cách chấn tâm (km) |
Biên độ sóng (cm) |
Thời gian tới (phút) |
|
Đà
Nẵng |
7,5 |
10 |
332 |
360 |
200 |
|
Vinh |
7,5 |
10 |
271 |
400 |
150 |
|
Quảng Ninh |
7,5 |
10 |
232 |
410 |
130 |
|
Nguồn
3, trường hợp 2 lớp |
|
|||||
Điểm đến |
Độ lớn (Chấn cấp) |
Độ sâu (km) |
Khoảng cách chấn tâm (km) |
Biên độ sóng (cm) |
Thời gian tới (phút) |
|
Đà Nẵng |
7,5 |
10 |
332 |
960 |
200 |
|
Vinh |
7,5 |
10 |
271 |
1000 |
150 |
|
Quảng Ninh |
7,5 |
10 |
232 |
1100 |
130 |
|
Các kết
quả trên đây (Bảng 1-4) cho thấy nguy hiểm sóng
thần lớn nhất, đạt độ cao trên 10 m,
tại vùng biển Quảng Ninh và Vinh, nếu lấy
kịch bản động đất xuất hiện
tại Tây Hải Nam với chấn cấp 7,5 độ
Richter và trường hợp ba lớp.
IV. MỘT SỐ KẾT LUẬN SƠ BỘ VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết
luận
1. Chương trình lan
truyền sóng thần Tsu1d và Tsu2d, sản phẩm hợp tác
khoa học và công nghệ Việt Nam - Italia, tương
đối hoàn thiện, dễ sử dụng và có thể
áp dụng trong nghiên cứu lan truyền sóng thần trong
phạm vi Biển Đông Việt Nam.
2. Đối với những
trận động đất có chấn cấp bằng
7,0 dù xảy ra sát đường bờ biển cũng
không gây sóng thần đáng kể. Các động
đất có chấn cấp 7,5 độ Richter trở lên
xảy ra trong phạm vi Biển Đông, cách
đường bờ dưới 1000 km có thể gây sóng
thần mức độ không cao, tác động tới
bờ biển và hải đảo Việt
3. Đới động
đất Manila là nguồn sóng thần xa có ảnh
hưởng trực tiếp đến bờ biển và
hải đảo Việt
4. Các đới đứt gãy
sinh chấn trong phạm vi Biển Đông là những
đới có nguy cơ tiềm ẩn động
đất gây sóng thần nguy hiểm. Ở khoảng cách
rất gần, nên các đới như Bắc Hoàng Sa, Kinh tuyến
1100, Thuận Hải - Minh Hải, Cảnh
Dương - Phú Quý, Palawan có thể gây sóng cao tại
đường bờ và thời gian tới của sóng
lại ngắn. Chẳng hạn, động đất
với chấn cấp 7,5 xảy ra tại đới Bắc
Hoàng Sa có thể tạo nên độ cao sóng thần trên 2,0
m tại Hoàng Sa; động đất với chấn
cấp 7,5 độ Richter xảy ra tại đứt gãy
Thuận Hải - Minh Hải gây sóng thần tại Vũng
Tàu (khoảng cách 42 km) cao 2,5 m chỉ sau 25 phút.
5. Nguy
hiểm sóng thần lớn nhất, đạt độ
cao trên 10 m tại vùng biển Quảng Ninh và Vinh nếu xuất
hiện kịch bản động đất tại Tây
Hải Nam với chấn cấp 7,5 độ Richter và
trường hợp ba lớp.
2. Kiến
nghị
1. Mô hình hai chiều và một
chiều trong tính toán biểu đồ triều tổng
hợp dọc theo từng đoạn tia từ nguồn
đến vị trí máy thu đã bỏ qua hiệu ứng
ba chiều của đáy biển. Hiệu ứng này có
thể gây khúc xạ, tán xạ và hội tụ sóng. Ngoài ra,
sự tồn tại của đảo nhỏ và bán đảo
cũng gây ra các hiệu ứng tương tự mà cần
được đề cập tới trong phát triển
chương trình tính lan truyền sóng thần trong
tương lai.
2. Cấu trúc đường
bờ, nhìn chung, rất phức tạp, trong chương
trình tính này đã đơn giản hóa nó, vì vậy sẽ
chịu ảnh hưởng tới thời gian sóng
đến và biên độ (độ cao) sóng. Vùng biển
nước ta có độ sâu chủ yếu dưới 1000
m đến hàng chục m nước sẽ gây ra hiệu
ứng nông (làm tăng biên độ).
3. Kịch bản sóng thần
trong chương này lấy 8,85 độ Richter đối
với động đất cực đại tại
4. Cực đại
động đất của các đới phát sinh
động đất mạnh trong phạm vị Biển
Đông cần được nghiên cứu chi tiết
hơn.
VĂN LIỆU
1. Cao
Đình Triều (Chủ biên), 2006. Thiết lập những tiếp
cận thích hợp để nghiên cứu dự báo
động đất lãnh thổ Việt Nam. BC tổng kết nhiệm vụ
HTQT về KH&CN theo Nghị định thư Việt Nam
- Italia (2004-2006). Lưu
trữ Viện VLĐC, Hà Nội, 169 trg.
2. Cao
Đình Triều (Chủ biên), 2008. Nghiên cứu dự báo động
đất mạnh khu vực ĐN Châu Á có nguy cơ gây sóng
thần ảnh hưởng đến bờ biển và
hải đảo Việt Nam. BC
tổng kết nhiệm vụ HTQT về KH&CN theo
Nghị định thư Việt Nam - Italia (2006-2008). Lưu trữ Viện VLĐC, Hà
Nội. 222 trg.
3. IOC-IUGG International Workshop,
2000. Tsunami risk assessment beyond
2000: Theory, practice and plans. Pp. 34-43,
4. Ngô Thị Lư, 2005. Đặc điểm hoạt
động của động đất gây sóng thần
Andaman- Nicobar (26.12.2004) và diễn biến dư chấn
của nó. Tc. Địa
chất, 286: 1-10. Hà Nội,
2005.
5. Nguyễn Đình Xuyên (Chủ
biên), 2007. Nghiên cứu đánh giá độ nguy
hiểm động đất và sóng thần ở vùng
bờ biển Việt Nam và đề xuất các giải
pháp cảnh báo, phòng tránh. BC
Đề tài cấp
Viện KH&CN VN. Lưu trữ Viện VLĐC, Hà Nội.
6. Nguyễn
Ngọc Thuỷ, 2004. Nghiên cứu khả
năng xảy ra sóng thần ở ven biển và hải
đảo Việt Nam. TC Các khoa học về Trái
đất, 26/4 : 289-294. Hà Nội.
7. Phạm Văn Thục, 1995. Bước đầu đánh giá ảnh hưởng
của sóng thần ở Biển Đông đến bờ
biển Việt Nam. Các công trình
NC ĐC và ĐVL biển, 1
: 145-155. Nxb KH&KT, Hà Nội.
8. Phạm Văn Thục, 1998. Độ nguy hiểm động đất và sóng
thần vùng quần đảo Trường Sa. Tt các công trình NC về
điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên vùng QĐ
Trường Sa, trg 127-143.
Nxb KH&KT, Hà Nội.
9. Phạm Văn Thục, 2000. Đánh giá độ nguy hiểm của sóng thần
ở Biển Đông. Các công
trình NC ĐC và ĐVL biển, 4 : 31-46. Nxb KH&KT, Hà Nội.
10.
Titov V., Gonzalez F., 1997. Implementation
and testing of the method of splitting tsunami (MOST) model. NOAA techn. memorandum ERL PMEL-112, Pacific
Marine Env. Lab. - Contribution No. 1927 from NOAA/PMEL.
11. Titov V.,
Gonzalez F., Bernard E., Eble M., Mofjeld H., Newman J. & Venturato A.,
2005. Real-time tsunami forecasting: Challenges
and Solutions. Natural Hazards, 35 : 34-41,
Spec.
12.
Vũ Thanh Ca, Nguyễn Đình Xuyên, 2007.
Rủi ro sóng thần vùng biển Việt nam và khả
năng dự báo. BCKH tại HT
Ảnh hưởng của sóng thần đối với
cộng đồng dân cư ven biển: Đề xuất
một số biện pháp phòng tránh. Trg 42-59.
13. Yanovskaya
T.B., 1999. Rep. within the framework
of the SAND group “Tsunami generation by earthquakes near coastline”. ICTP internal report.
14. Yanovskaya
T.B., 2000. Report within the
framework of the SAND group: “Tsunami generation by inland/coastal earthquakes”. ICTP internal report.
15. Yanovskaya T.B., Romanelli F., Panza G.F.,
2003. Tsunami excitation by inland/coastal earthquakes: The
Green function approach. NHESS, 3 : 353-365.