NGHIÊN CỨU CỔ ĐỘNG ĐẤT
VÀ CỔ SÓNG THẦN Ở VIỆT
ROGOZHIN E.1, CAO
Đ̀NH TRIỀU2, NGÔ THỊ LƯ2, NGUYỄN HỮU TUYÊN2
1Viện Vật lư Trái
đất, Viện HLKH Liên bang Nga
2Viện Vật lư Địa cầu, Viện
KH&CN Việt Nam, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy,
Hà Nội
Tóm tắt: Các
đợt khảo sát cổ động đất và
cổ sóng thần ở Việt
1. Có
thể đă xảy ra một trận cổ động
đất ở vùng Phong Thổ cách nay khoảng 480-530
năm với chấn cấp có thể đạt 8,0
độ Richter.
2.
Trước trận động đất Tuần Giáo M6,7
năm 1983, tại vùng này đă xảy ra một trận
cổ động đất cách nay khoảng 420-430 năm
và với chấn cấp 7,0 độ Richter.
3. Ba
đợt cổ sóng thần có thể đă xuất
hiện và để lại vết tích vào các năm cách nay 380,
610, và 960 năm, độ cao tối đa lên tới 18 m.
I. MỞ
ĐẦU
Trên
thực tế, các trận động đất mạnh,
gây phá huỷ nghiêm trọng, thường xuất hiện
bất ngờ và nhiều khi
khó phát hiện các dấu hiệu dự báo
trước. Chẳng hạn như trận động
đất Đường Sơn (ngày 27-7-1976), động
đất
Hầu
hết các đợt sóng thần có sức tàn phá lớn
đều được h́nh thành từ các trận
động đất mạnh có chấn tâm nông. Thông
thường, chúng là những trận động
đất phát sinh tại các đới hút ch́m, các
đứt găy phát sinh động đất tại vùng
biển, hồ sâu. Khi động đất mạnh
xảy ra dọc theo các đứt găy này sẽ gây ra sự
dịch trượt đột ngột theo phương
thẳng đứng khiến bề mặt đáy biển
thay đổi, kéo theo sự dịch chuyển của
khối nước trên nó và gây nên sóng thần. Những ǵ
biết được thông qua tư liệu lịch
sử và điều tra trong nhân dân, th́ dọc bờ
biển Việt
Điều
tra, nghiên cứu cổ động đất và cổ sóng
thần chủ yếu được tiến hành trong
những năm gần đây và với sự cộng tác
của các nhà khoa học thuộc Viện Vật lư Trái
đất, Viện HLKH Liên bang Nga. Đă có một số
kết quả sơ bộ được công bố riêng
rẽ trong một số công tŕnh [1, 2, 4, 5]. Trong khuôn khổ
bài báo này, các tác giả muốn tổng hợp lại và
đưa ra một số nhận định sơ bộ
về biểu hiện của cổ động
đất và cổ sóng thần ở Việt
II. NGHIÊN CỨU
CỔ ĐỘNG ĐẤT
1. Bước
đầu t́m kiếm vết tích cổ động
đất ở Việt
Trong các
năm 2006-2008, một số cán bộ khoa học Viện
Vật lư Địa cầu cùng các chuyên gia Liên bang Nga đă
tiến hành khảo sát vết tích cổ động
đất tại Tây Bắc Bộ. Qua phân tích mẫu
đă nhận được một số kết luận
nhất định [1, 3]. Năm 2009, chúng tôi lại
tiếp tục khảo sát cổ động đất
dọc bờ biển Việt
a. Đảo Ḥn Mun (vịnh Nha Trang): Điểm
khảo sát này nằm ở độ cao 10-30 m (H́nh 1), là
một băi đá tảng, đá cục granit h́nh thù góc
cạnh, trượt lở hỗn độn. Đây có
thể là vách đá bị sập lở đột ngột
lăn ra và bị gắn kết trong san hô dọc ven
đảo. Điều đáng chú ư là sự xuất
hiện một đới đứt găy phương á kinh
tuyến (3450), có khả năng là trượt
bằng trái (xác định theo mặt gồ ghề).
Đứt găy này có xu hướng cắm về phía tây
một góc 80-850 và chia đôi đảo Ḥn Mun thành
hai phần. Khối đá granit phần phía đông c̣n nguyên
vẹn, trong khi tại phía tây đá granit bị vỡ
vụn và trượt lở chồng chất lên nhau.
b. Điểm B́nh Lư 1: Tại đây đă quan sát thấy một
khối trượt lở núi rất lớn dạng
khối đá lở (H́nh 2) có phương á vĩ tuyến
dài trên 3 km trải dọc theo thung lũng của một con
sông nhỏ. Các tảng đá
và các mảnh vỡ granit màu xám đen, thỉnh thoảng
c̣n bắt gặp các khối đá có góc mở với kích
thước 2×2×2 m3 nằm lẫn trong lớp phong
hoá dăm sét đến trạng thái đá ong gắn
kết yếu. Trên sườn phía tây dăy núi quan sát thấy
đới đứt đoạn của khối
trượt này. Lớp thực vật bao phủ
sườn núi có tuổi khoảng 50 năm.
c. Điểm B́nh Lư 2: Tại đây quan sát thấy các khối và
mảnh vụn đá granit nằm rải rác trong lớp
laterit màu vàng ánh đỏ.
d. Điểm Phong
Thổ 1: Tại
đây quan sát thấy các khối và mảnh vụn đá
granit nằm rải rác trong lớp laterit màu vàng ánh
đỏ.
e. Điểm Phong
Thổ 2: Tại
điểm Phong Thổ 2 quan sát thấy một lớp
sạt lở núi cổ phủ lên trên vùng đồi khá
bằng phẳng (H́nh 3). Trên vách trượt phương á
vĩ tuyến của khối trượt núi cổ quan sát
thấy phay nghịch chờm, tại đó lớp
trượt có cấu tạo phức tạp, lớp laterit
nâu đỏ xen lẫn các mảnh vỡ kích thước
từ hàng chục cm đến 1×1,5 m nằm đè lên
lớp trượt khác có tuổi cổ hơn. Lớp
trượt nằm dưới bao gồm các mảnh
vỡ tṛn trịa, kích thước từ 0,5 đến 3,5
m được bao bọc bởi lớp gắn kết
laterit màu da cam, đoạn mảnh vụn “chảy ṿng”.
Bề mặt phay trượt có góc phương vị 700
với góc cắm 300, là lớp bị oxit sắt
hoá dày 5-10 cm, bị phá huỷ một vài nơi bởi các
dịch trượt thuận và nghịch. Trên cánh treo
của phay nghịch quan sát thấy lớp laterit dày 20-30 cm
màu nâu sáng. Tại hố đào này (vị trí đào móng nhà
gần núi đá vôi và một con sông nhỏ, trên
đường vào thị xă Lai Châu mới - Phong Thổ
cũ) có thể là đă xuất hiện hai lần
trượt lở tại hai thời điểm khác nhau
ở một vị trí.
f. Điểm Phong Thổ 3: Tại vị trí này, trên sườn TN của
một thung lủng rộng lớn quan sát thấy một
khối trượt lở. Bản thân khối
trượt chứa các tảng đá và mảnh vụn
của sỏi kết và cuội kết màu đỏ (có
thể là tuổi C2) có h́nh thù tṛn trịa, kích
thước 2×2×4 m3 gắn kết yếu. Khối
trượt tách khỏi khu vực bị trượt
lở khoảng 4 km và chiều rộng của khối
trượt khoảng 3 km.
H́nh 1. Băi đá tảng, đá cục
trượt lở hỗn độn trên đảo Ḥn Mun.
H́nh 2. Sạt lở núi ở B́nh Lư
1, nghi ngờ là do động đất gây ra.
H́nh 3. Biểu hiện của
đới nghịch chờm tại hố đào Phong
Thổ 2,
nghi ngờ là do hoạt
động động đất gây nên.
g. Điểm Tuần Giáo: Tại đới chấn tâm động
đất Tuần Giáo (năm 1983) đă quan sát thấy
một đoạn địa luỹ của một phá
huỷ địa chấn cổ dài khoảng 100 m, cao 1,5 m.
Tại nhiều nơi, biên độ của địa
luỹ đạt 1,0-1,2 m. Tại cánh hạ của
địa luỹ (cùng phương kéo dài với chiều
rộng 10-15 m), dân địa phương đă đào ba
cái ao và một cái giếng. Dịch trượt nghịch
trong động đất nâng cánh ĐN của đứt
găy lên khoảng 10-20 cm. Đứt găy này được
thể hiện trên mặt địa h́nh là sự tạo
nên một yên ngựa rộng 20-30 m và sâu hơn các khối
bên cạnh 10-15 m.
2. Kết quả
phân tích tuổi tuyệt đối và một số
nhận định bước đầu
a. Phân
tích tuổi tuyệt đối: Tuổi tuyệt
đối của mẫu vật địa chất
được xác định bằng phương pháp
carbon phóng xạ (thực hiện tại Viện Khảo
cổ học vào năm 2007 và 2009), dựa theo hai tiêu
chuẩn: Tiêu chuẩn truyền thống và tiêu chuẩn
mới.
- Tiêu
chuẩn truyền thống lấy T1/2 = 5.570
năm và các chỉ tiêu tương ứng.
- Tiêu chuẩn mới lấy T1/2 = 5.730±30
năm, cùng với việc áp dụng hợp lư các hiệu
chỉnh thế kỷ (H.N. Michael và E.K. Ralph) tại Hội
nghị Quốc tế lần thứ 8 và chương tŕnh
hiệu chuẩn quốc tế INT-98 về xác định
tuổi bằng phương pháp carbon phóng xạ với
độ tin cậy 68,2% và 95,4%.
Hai
kết quả phân tích này cho giá trị sai lệch nhau không
đáng kể và chúng tôi lựa chọn kết quả phân
tích tuổi theo tiêu chuẩn mới (Bảng 1).
Bảng 1. Kết quả phân tích tuổi tuyệt đối
của mẫu địa chất
(phương pháp carbon phóng xạ) theo tiêu chuẩn
mới, T1/2 = 5.730±30 năm
TT |
Vị trí lấy
mẫu |
Thời gian
đo mẫu (phút) |
Tuổi tuyệt
đối được xác định với việc
áp dụng hiệu chuẩn quốc tế INT-98 (năm) |
Sai số xác
định tuổi (năm) |
1 |
Ḥn Mun |
1.500 |
4.750 |
±95 |
2 |
B́nh Lư 2 |
2.800 |
530 |
±50 |
3 |
Phong Thổ 2 |
2.800 |
495 |
±50 |
4 |
Tuần Giáo |
2.800 |
430 |
±55 |
b.
Biểu đồ Gutenberg-Richter: Biểu
đồ Gutenber-Richter được xây dựng với
mục đích tính toán chu kỳ lặp lại động
đất của một đới hay một vùng phát sinh
động đất nào đó [3]. Thông qua biểu
đồ này (hàm quan hệ nhận được), chúng ta
biết được chu tŕnh lặp lại của
động đất. Và cũng dự báo được
thời gian có thể xảy ra một trận động
đất mạnh lớn hơn (hay lớn nhất).
Đối với khu vực Tây Bắc Bộ, trên cơ
sở danh mục động đất đến 2007,
biểu đồ Gutenber-Richter có dạng (H́nh 4):
Lg N =
4,9429 - 0,8407 M (1)
Theo đó th́ chu kỳ lặp lại động
đất tương ứng sẽ là 56 năm đối
với động đất có chấn cấp (magnitude)
bằng 6,0 độ Richter; 385 năm đối với M =
7 và 2668 năm với M = 8.
c. Trận động đất cổ có M = 7,0 ở
Tuần Giáo: Rơ nét trong quá tŕnh khảo sát thực
địa khu vực chấn tâm động đất
Tuần Giáo năm 1983 là đới khe nứt phương
ĐB, gần vuông góc với đới đứt găy
Sơn La, nơi đă xảy ra động đất
Tuần Giáo năm 1983. Đới khe nứt này h́nh thành
trong điều kiện bị tác động nội
lực đột ngột và được lấp
đầy đất trồng cổ. Sự dịch
trượt chờm nghịch của đới khe nứt
cũng như biểu hiện của cấu trúc
địa h́nh, địa mạo tại vùng khảo sát cho
phép nhận định về khả năng đă xuất
hiện một động đất cổ tại vùng
Tuần Giáo cách đây khoảng 420-430 năm. Theo kết
quả tính toán đồ thị lặp lại động
đất theo Gutenber-Richter th́ một trận động
đất 7,0 độ Richer có chu kỳ lặp lại là
385 năm. Như vậy, có thể giả thiết là
trận động đất trước động
đất Tuần Giáo có độ lớn cỡ 7,0
độ Richter.
H́nh 4. Biểu đồ Gutenber-Richter khu
vực Tây Bắc Bộ.
d. Khả năng xảy ra cổ động
đất ở vùng Phong Thổ với M = 8,0: Trong phạm vi
vùng B́nh Lư - Phong Thổ, dọc theo các điểm
khảo sát đă quan sát thấy dấu hiệu của các
khối trượt lở lớn có thể xảy ra trong
trạng thái bị tác động đột ngột,
mạnh của những dao động bề mặt Trái
đất. Các dao động như vậy thông
thường chỉ có thể do một trận
động đất mạnh gây nên.
Năm 1997, khi nghiên cứu quy luật hoạt
động động đất Tây Bắc Bộ, Cao
Đ́nh Triều và Nguyễn
Thanh Xuân đă dự báo là vùng Phong Thổ có thể là
nơi sẽ xảy ra động đất mạnh. Tuy
rằng với mức độ quan trắc hiện nay
chúng ta chỉ thấy động đất đă xảy
ra dọc đới đứt găy Phong Thổ - Mù Căng
Chải có giá trị chấn cấp nằm trong giới
hạn nhỏ hơn 5 độ Richter. Song nếu xác
định theo công thức Wells và Coopper-Smith [8] th́
đới đứt găy này có thể có khả năng
xảy ra động đất có chấn cấp bằng
8,0. Với động đất như vậy, nếu
nằm ở độ sâu không lớn, đương nhiên
sẽ gây nên biến dạng bề mặt địa h́nh
và sạt lở nghiêm trọng.
e.
Trận động đất cổ có chấn cấp
rất lớn ở vùng Ḥn Mun: Mức độ
phá hủy bề mặt địa h́nh tại Ḥn Mun
rất lớn, có thể tương đương
với động đất cổ Phong Thổ (nếu
có). Và v́ vậy, chúng ta cũng có thể đưa ra
một giả thiết là có thể đă có một trận
động đất cổ xảy ra tại vùng Ḥn Mun
cách đây 4.750±95 năm.
III. NGHIÊN CỨU
CỔ SÓNG THẦN
Qua các
đợt điều tra, khảo sát cổ sóng thần
dọc ven biển Việt
- Điểm thứ nhất: nằm ở
bờ tây của vụng trong vùng Sông Cầu (Cồn Cao) (13027.27’
B và 109012.43’ Đ), tại độ cao 6-8 m trên
mực nước biển. Tại đây, trên bề
mặt thềm biển đă phát hiện một tầng
cuội có thành phần cát kết grauvac màu xám lục
với độ mài tṛn trung b́nh, nằm trên nền
trầm tích hạt vụn có cùng thành phần. Kích
thước hạt cuội 0,5-5 cm.
- Điểm thứ hai: nằm ở
bờ tây vụng Đảo Khỉ với tọa
độ 12020.798’ B và 109011.827’ Đ,
tại độ cao 10 m trên mực nước biển.
Tại đây, trên bề mặt thềm biển thấp,
trên tầng tàn tích màu đỏ của nền granit và
lớp laterit dày 70 cm phủ trên nó, có 2 tầng dày 15-25 cm,
cấu thành từ các hạt sạn, sỏi không
được chọn lọc có thành phần cát kết
arkos và những hạt cuội granit tṛn cạnh phân bố
rải rác. Kích thước các hạt góc cạnh 0,3-1,5 cm.
Tiết diện hạt cuội 1,5×3,0 cm. Một hạt
cuội có đường kính đạt 10 cm. Khoảng
không gian giữa các hạt cuội được cát
hạt thô thành phần arkos lấp đầy. Các tầng
bị phân cách và phủ trên bởi các lớp mỏng laterit
(dày 10-20 cm). Phủ trên mặt cắt là một lớp
rất mỏng thổ nhưỡng bạc màu hiện
đại.
- Điểm
thứ ba: quan sát được ở vùng TP Phan Rang
với toạ độ: 11035.501’ B và 109001.807’
Đ. Trên thềm cao 9 m so với mực nước
biển, tại chân của một vết lộ lớn
đá granit, giữa các tàn tích quan sát thấy 2 tầng
sạn, sỏi thành phần cát kết arkos. Tầng
dưới dày 10-20 cm, tầng trên – 5-15 cm. Tầng
dưới nằm trên bề mặt của lớp thổ
nhưỡng cổ màu xám sẫm bị chôn vùi, dày 5-10 cm,
đặc trưng bởi kích thước các mảnh
vụn góc cạnh 0,1-0,5 cm và độ chọn lọc kém
của vật liệu trầm tích. Quan sát thấy có sự
gần gũi với độ hạt phân cấp, khi
ở đáy lớp là các vật liệu hạt thô hơn,
càng gần mặt trên của lớp - độ hạt
càng nhỏ, bằng kích cỡ hạt cát. Tầng cát arkos
được phủ bởi lớp thổ nhưỡng
cổ rất nghèo, trên đó là tầng sạn và cát arkos
thứ hai. Vật liệu của cả hai tầng
sạn, sỏi được rửa lũa, bở
rời, không có xi măng gắn kết. Quan hệ giữa
lớp sạn sỏi phía trên và phía dưới có dạng
phân lớp xiên. Bề mặt thềm biển nghiêng về
phía ĐB (phương vị hướng dốc 550, góc
dốc 30), c̣n tầng sạn arkos dưới có góc nghiêng
50.
Phía nam
của vết lộ này là một dải cồn cát cao 10-20
m, kéo dài song song với bờ biển. Cồn cát cấu
thành từ cát thạch anh - felspat màu xám vàng nhạt,
độ hạt thô và trung b́nh, phân lớp xiên và có
độ gắn kết yếu. Trong cát băi biển tại
chân dải cồn cát có chứa nhiều vụn hoá
thạch của Bọt biển và San hô quần thể.
- Điểm
thứ 4: nằm ở phía đông làng Phước
Diễm, toạ độ 11018.389’ B và 108044.810’
Đ. Trên bề mặt thềm mài ṃn cao 12 m là các trầm
tích bở rời của thềm có thành phần là các
mảnh vụn cát kết arkos góc cạnh và cuội limonit
với độ mài tṛn trung b́nh và kém. Tại đây,
cũng phổ biến cuội có thành phần cát kết
thạch anh, felspat hạt nhỏ và granit. Kích thước
cuội, theo trục dài, bằng 0,5-10 cm. Tầng cuội
kết được gắn kết yếu bởi cát
kết arkos hạt thô. Phức hệ thềm trên thực
tế không được chọn lọc và chỉ phát
triển tại phần thấp của thềm, trên
những phần cao hơn của nó (độ cao 12-13 m
trên mực biển) vắng mặt cuội, c̣n trên mặt
thềm lộ trực tiếp đá granit sáng màu phong hoá.
Như vậy, bề dày tầng đá vụn dao
động từ 0 đến 50 cm. Đôi khi trên mặt
móng gặp những hốc rất sâu, tại đó bề
dày tầng cuội kết có thể lên đến 1 m.
- Điểm
thứ 5: nằm sâu trong vụng tại vùng duyên
hải phía TN bán đảo Vũng Tàu. Tại nơi có
toạ độ 10022.951’ B và 107003.419 Đ
đă phát hiện thềm biển dạng nền cao 18 m
trên mực nước biển. Móng thềm cấu thành
từ đá granit sáng màu, c̣n lớp phủ – từ các
trầm tích vụn có thành phần granit và cát kết không
chọn lọc, có độ mài tṛn kém và trung b́nh. Trầm tích
lớp phủ dày 25-30 cm, ở đó không thấy tính phân
lớp. Các hạt vụn được gắn kết
vững chắc bằng xi măng là cát kết arkos hạt
nhỏ.
- Điểm thứ 6:
quan sát thấy ở vùng ven biển Cửa Ḷ - Diễn Châu
(Nghệ An). Tọa độ của điểm này: 18054.185’
B và 105036.235’ Đ. Điểm quan sát ở vùng
Cửa Ḷ - Diễn Châu sau đó được khảo sát
nhiều lần trong những năm 2007-2008. Đối
tượng được chú ư đặc biệt trong
những lần khảo sát này là sự tích tụ ṣ,
điệp thành các cấu trúc dị thường phân
bố rải rác trong vùng Quỳnh Lưu - Diễn Châu -
Cửa Ḷ.
2. Kết quả
phân tích tuổi tuyệt đối
Sự phân tích theo phân bố tuổi cho thấy có
biểu hiện của ba chu kỳ tuổi tuyệt
đối của mẫu địa chất, đó là: 365,
605, 935 năm đối với phương pháp phân tích 1
và: 380, 610, 960 năm đối với phương pháp phân
tích 2. Như vậy, nếu có thể khẳng định
rằng các cấu trúc tại điểm lấy mẫu là
do sóng thần tạo ra, th́ tại vùng ven biển Việt
Nam đă xảy ra ít nhất 3 đợt sóng thần vào các
năm cách đây 380 năm, 610 năm và 960 năm, chu kỳ
trung b́nh là 320 năm. Độ cao tối đa của sóng
thần có thể lên tới 18 m.
Liệu sóng thần đă thực sự đổ
bộ vào bờ biển Việt
1. Các dấu
hiệu sóng thần đă ghi nhận được trong
khu vực Biển Đông và Tây
-
Đới hút ch́m Manila là nơi có nguy cơ xuất
hiện động đất mạnh gây sóng thần tác
động đến bờ biển tiếp giáp với
Biển Đông như bờ biển Hoa Nam, bờ biển
Đông Việt Nam, Bruney và Malaysia. Mức độ ảnh
hưởng của sóng thần có nguồn Manila đến
các điểm trên đường bờ của mỗi
nước này sẽ khác nhau, phụ thuộc vào chấn
cấp của động đất gây ra sóng thần và
khoảng cách từ chấn tâm tới đường
bờ quan sát sóng thần.
- Các nguồn sóng thần nằm sát với
đường bờ biển Hoa Nam và đặc biệt
là sát với đường bờ biển Việt Nam
lại trùng với đới động đất
mạnh thuộc ven bờ Biển Đông và Trung Quốc.
Như vậy, ngoài yếu tố sóng thần lan truyền
tới từ nguồn
Tóm
lại, có thể nói rằng bờ biển Việt Nam,
ở mức độ khác nhau, đă chịu ảnh
hưởng tác động của sóng thần vừa có
nguồn gốc xa, từ đới Manila, vừa có
nguồn gốc gần, nằm sát với đường
bờ Trung Quốc và đường bờ Việt Nam.
2. Các kết luận của phân tích
địa chất cho rằng, lớp phủ thềm
được thành tạo trong hoàn cảnh xáo trộn
dữ dội của nước. Điều kiện này
biểu hiện rơ ràng đặc trưng sóng thần. V́
vậy, có thể đưa ra một giả thiết
rằng các điểm đă được khảo sát là
vết tích để lại của hoạt động
sóng thần tác động đến bờ biển
Việt
3.
Kết quả phân tích tuổi tuyệt đối của
các mẫu địa chất tại các lớp phủ
thềm đă cho thấy có ít nhất 3 đợt phủ
thềm trên diện rộng, vào
các năm cách đây 380, 610 và 960 năm, chu kỳ trung b́nh là
320 năm. Độ cao tối đa của sóng có thể
lên tới 18 m. Với đặc trưng này th́ giả
thiết về sự tồn tại cổ sóng thần
đă gây tác động mạnh mẽ vào bờ biển
Việt Nam là có thể chấp nhận.
IV. MỘT SỐ
NHẬN ĐỊNH BƯỚC ĐẦU
1. Về cổ
động đất
Sự
phân tích tài liệu khảo sát thực địa, phân tích
tuổi tuyệt đối các mẫu vật ở Tây
Bắc Bộ và đánh giá động đất cực
đại của đới đứt găy Phong Thổ - Mù
Căng Chải cho phép rút ra một số nhận
định sau:
1- Mức độ phá hủy bề mặt
địa h́nh tại Ḥn Mun rất lớn, có thể
tương đương với động đất
cổ Phong Thổ (nếu có). Và v́ vậy, chúng ta cũng có
thể đưa ra một giả thiết là có thể
đă có một trận động đất cổ
xảy ra tại vùng Ḥn Mun cách đây 4.750 năm.
2-
Sự dịch trượt chờm nghịch của
đới khe nứt cũng như biểu hiện của
cấu trúc địa h́nh, địa mạo tại vùng
khảo sát cho phép nhận định về khả năng
đă xuất hiện một trận động
đất cổ tại vùng Tuần Giáo cách đây khoảng 420-430 năm.
Theo kết quả tính toán đồ thị lặp lại
động đất theo Gutenber-Richter th́ một trận
động đất 7,0 độ Richer có chu kỳ
lặp lại là 385 năm. Như vậy, có thể giả
thiết là trận động đất trước
động đất Tuần Giáo có độ lớn
cỡ 7,0 độ Richter.
3-
Với mức độ quan trắc hiện nay, chúng ta
chỉ thấy động đất đă xảy ra
dọc đới đứt găy Phong Thổ - Mù Căng
Chải có giá trị chấn cấp nằm trong giới
hạn nhỏ hơn 5 độ Richter. Song, nếu xác
định theo công thức Wells và Cooper-Smith th́ đới
đứt găy này có khả năng gây ra động
đất có chấn cấp bằng 8,0. Với
động đất như vậy, nếu nằm ở
độ sâu không lớn sẽ đương nhiên gây nên
biến dạng bề mặt địa h́nh và sạt
lở nghiêm trọng.
Cũng
cần phải nói rằng, trên đây chỉ là những
nhận định bước đầu cần phải
được điều tra, khảo sát và phân tích một
cách chi tiết và khoa học hơn trong thời gian tới
để tiến tới một kết luận rơ ràng
hơn. Tuy vậy, những ǵ quan sát thấy tại Phong
Thổ 2 lại cho phép chúng ta suy nghĩ về không chỉ
là một trận cổ động đất đă
xuất hiện tại vùng Phong Thổ.
2. Về cổ
sóng thần
1-
Cổ sóng thần có thể đă tấn công vào bờ
biển Việt
2- Trên cơ sở tổng hợp, phân tích các tài
liệu địa chất, địa mạo hiện có và
các tài liệu thu thập trên thực địa, có thể
nhận định rằng: vùng Diễn Châu - Quỳnh
Lưu là các đồng bằng h́nh thành trong Đệ
tứ kiểu lấp đầy vũng vịnh sau cồn
cát nối đảo, điển h́nh cho kiểu bờ
biển và các đồng bằng miền Trung, nơi có các
dải núi xuyên ngang kiểu xương cá từ dải
Trường Sơn với các ḍng chảy sông suối
ngắn đổ thẳng ra biển. Ghi nhận các
mực thềm biển đánh dấu các thời kỳ
biển tiến và tích tụ trầm tích biển tuổi
Pleistocen muộn (Q13) nằm sát các
sườn núi thấp - đồi bóc ṃn lộ ra các thành
tạo trước KZ (chủ yếu là các thành tạo Trias
trung-thượng) và thềm biển tuổi Holocen giữa
(biển tiến Flandri), sự tích tụ các trầm tích
biển và sông-biển hỗn hợp tạo nên bề
mặt đồng bằng hiện tại đang bị
các ḍng chảy sông suốí đào-lấp. Dọc theo
đường bờ là các dải doi cát nối
đảo nối các núi sót nhô lên trên đồng bằng và
các dải núi xuyên ngang ra biển. Tại các chân núi này h́nh
thành các thềm đá (bench), vách sạt lở và tích tụ
các tảng trượt lở, cuội, sỏi, đôi
chỗ lẫn các băi vỏ ṣ ốc khá dày (Núi Rồng,
Quỳnh Lưu). Đôi chỗ ngay trên bề mặt
đồng bằng nổi lên các g̣-đống hoặc
tấm vỏ ṣ điệp gắn kết chắc,
được dùng làm vật liệu xây dựng, phân
bố ở các mức độ cao và vị trí khác nhau:
cồn ṣ điệp ở Quỳnh Văn (sát chân dải
núi sót có độ cao 7-8 m, có thể tới 10 m) cách bờ
biển 4-5 km; ở sát bờ biển gặp trong lớp
dưới đồng bằng như ở Quỳnh
Nghĩa; gặp ngay trên mặt đường (có
độ cao khoảng 4 m trên mực biển) như ở thị trấn Diễn Châu,
dưới các doi cát ven biển như ở Nghi Yên, Nghi
Tiến và g̣ đống cao 5-6 m như ở Nghi Tiến.
Các giá trị tuổi 14C của các mẫu vỏ ṣ
ốc, đặc biệt là QV1-2 và NL2-4 nằm ở các
độ cao khác nhau và cách xa nhau, nhưng đều cho
một khoảng tuổi 4400-4500 năm. Điều này khó
có thể chỉ giải thích là sự dâng lên của
mực biển - biển tiến Holocen giữa
(được xác định là khoảng độ cao 3-5
m) xảy ra trong khoảng 4000-5000 năm trước
đây) hoặc bởi người cổ xưa ăn và
sử dụng chất thành đống, hoặc do vận
động nâng hạ kiến tạo như một số
các tác giả từng nghiên cứu và đề xuất
trước đây. Chúng tôi cho rằng, không nên loại
trừ một khả năng khác là hoạt động
của sóng thần (do động đất, do băo lốc
lớn) đă từng xảy ra trong lịch sử
trước đây. Một di chứng đáng chú ư nữa
là sự có mặt của tầng cuội tảng khá
lớn gặp trên mặt và dưới bề mặt
ở vùng xă Quỳnh Nghĩa (Quỳnh Lưu) nằm cách
khá xa chân núi sót sát bờ, trong khi ngay dưới chân núi
chỉ gặp chủ yếu là cuội sỏi cỡ trung
b́nh - nhỏ và cồn vỏ ṣ ốc hiện đại.
VĂN LIỆU
1. Cao Đ́nh Triều (Chủ biên),
2006. Thiết lập
những tiếp cận thích hợp để nghiên cứu
dự báo động đất lănh thổ Việt Nam. BC tổng kết nhiệm vụ
HTQT về KH&CN theo Nghị định thư Việt Nam
- Italia (2004-2006). Lưu
trữ Viện VLĐC, Hà Nội, 169 trg.
2. Cao Đ́nh Triều, Rogozhin E.A., Ngô
Thị Lư, Nguyễn Hữu Tuyên, Mai Xuân Bách, Lê Văn
Dũng, Nguyễn Thanh Tùng, 2007. Sóng thần có
thể đă tác động đến bờ biển
Việt Nam. Tuyển tập BC Hội nghị KHKT ĐVL VN lần thứ 5 : 172-181.
Tp. Hồ Chí Minh.
3. Cao Đ́nh Triều (Chủ biên),
2008. Nghiên cứu dự báo
động đất mạnh khu vực ĐN Châu Á có nguy
cơ gây sóng thần ảnh hưởng đến bờ
biển và hải đảo Việt Nam. BC tổng kết nhiệm vụ HTQT về KH&CN
theo Nghị định thư Việt Nam - Italia (2006-2008).
Lưu trữ Viện
VLĐC, Hà Nội. 222 trg.
4. Cao Đ́nh Triều, Rogozhin E.A., Yunga S.L.,
Ngô Thị Lư, Nguyễn Hữu Tuyên, Lê Văn Dũng,
Nguyễn Thanh Tùng, Lê Duy Bách, Vũ Minh Tuấn, 2009. Một số kết quả
bước đầu khảo sát dấu vết nghi
ngờ do hoạt động của động
đất cổ để lại tại miền Tây Bắc
Bộ, Việt Nam. TC
Địa chất, A/311
:1-10. Hà Nội.
5. Ngô Thị Lư, Rogozhin
E.A., Cao Đ́nh Triều, 2006. Một số biểu hiện địa chất có
khả năng là dấu tích sóng thần cổ dọc
bờ biển Nam Trung Bộ Việt Nam. TC Địa chất, A/297
: 24-29. Hà Nội.
6. Nguyễn Đ́nh Xuyên (Chủ biên),
2007. Nghiên cứu
đánh giá độ nguy hiểm động đất và
sóng thần ở vùng bờ biển Việt Nam và
đề xuất các giải pháp cảnh báo, pḥng tránh. BC Đề tài cấp Viện KH&CN VN. Lưu
trữ Viện VLĐC, Hà Nội.
7.
Wells D.L., Coppersmith K.J., 1994. New empirical
relationships among magnitude, rupture length, rupture width, and surface
displacement. Bull. of the Seism. Soc. of
8. Tsunami Laboratory,
2007. Historical tsunamigenic sources in the western