NGUY CƠ
CHÌM NGẬP LÃNH THỔ DO NƯỚC BIỂN DÂNG VÀ BIỆN
PHÁP ỨNG PHÓ XÉT TỪ
KHÍA CẠNH ĐỊA CHẤT THỦY VĂN VÀ ĐỊA
KỸ THUẬT
VÕ CÔNG
NGHIỆP
Hội Địa
chất Thủy văn, Tổng hội Địa chất
Việt Nam, 6 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội.
Tóm
tắt: Biến
đổi khí hậu toàn cầu đang đe dọa sự
sống trên hành tinh, trong đó Việt Nam được
xem là 1 trong 5 quốc gia sẽ chịu thiệt hại nhiều
nhất, trước hết là nguy cơ tràn ngập lãnh thổ
do nước biển dâng. Trên phạm vi quốc gia, Chính phủ
đã có “Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó
với biến đổi khí hậu” nhằm hoạch
định những chính sách và biện pháp chế ngự ở
tầm vĩ mô theo các kịch bản khác nhau.
Với tư cách là những
ngành khoa học có liên quan chặt chẽ với nước,
đất xây dựng và kỹ thuật công trình, địa
chất thủy văn và địa kỹ thuật có nhiệm
vụ gì và biện pháp nào để đóng góp vào cuộc
chiến chống tai biến thiên nhiên đó? Trong bài báo, tác
giả, từ góc độ chuyên môn của mình, đề
xuất một vài ý kiến sơ bộ nhằm trả lời
câu hỏi trên.
Loài người đang đối mặt
với những thách thức của sự biến đổi
khí hậu xảy ra trên quy mô toàn cầu, trước hết
là hiện tượng Trái đất nóng lên, làm tan băng ở
các địa cực và núi cao, nước biển dâng, nhấn
chìm nhiều vùng đất thấp duyên hải và hải
đảo, gây ra những thảm họa sinh thái mà Việt
Nam là một trong 5 nước chịu thiệt hại nhiều
nhất.
Theo kịch bản biến đổi
khí hậu ở Việt Nam vừa được Bộ
Tài Nguyên và Môi trường công bố, thì đến năm
2050 mực nước biển Đông có thể tăng thêm
30 cm và đến cuối thế kỷ - tới 75 cm so với
thời kỳ 1980-1999, còn theo kịch bản xấu nhất
- có thể tới 1 m. Với mức đó thì đồng bằng
Bắc Bộ sẽ có nhiều vùng (với tổng diện
tích khoảng nửa triệu ha) bị nước biển
xâm nhập, biển sẽ lấn sâu vào đất liền
hàng chục km. Ở đồng bằng Cửu Long sẽ
có khoảng 1,5 triệu ha (37,8% tổng diện tích) bị
nhấn chìm. Cái mỏm đất tận cùng của Tổ
Quốc ở phương Nam mà nhà văn Nguyễn Tuân
đã ví như “ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm”,
và thi sĩ Xuân Diệu cũng đã có những câu thơ da
diết:
“Tổ quốc tôi như một con
tàu,
Mũi thuyền ta
đó - mũi Cà Mau”
sẽ không còn nữa để dồn đầy
thêm thúng thóc lớn ở đầu gánh phía
Còn các đồng bằng ven biển
Trung Bộ cũng sẽ bị nước biển “liếm”
dần, có nơi sát tới chân dãy Trường Sơn. Ngoài
biển, nhiều hải đảo thấp sẽ biến
mất hoặc chỉ còn là những chỏm nhỏ
đơn côi giữa trùng dương bão giật, sóng dồi.
Dải đất hình chữ S chỉnh chu mà Tạo hóa
đã kiến lập nên như chiếc ban công lớn nhô ra
Thái Bình Dương sẽ không còn bảo tồn được
những đường cong uyển chuyển với cảnh
quan “non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
nữa, mà sẽ thay dạng đổi hình với những
mũi nhọn chìa ra, lạch sâu thụt vào nham nhở, gồ
ghề. Nhưng nghiêm trọng hơn cả là hiện
tượng biển lấn, đồng nghĩa với sự
tràn ngập những vùng địa hình thấp, nơi tập
trung đông đảo dân cư với nhiều đô thị,
trung tâm công nghiệp lớn, đồng thời cũng là
địa bàn nông nghiệp quan trọng, cung cấp
lương thực, thực phẩm chủ yếu cho cả
nước. Mất chỗ ở, con người sẽ phải
di cư về những phần đất nổi chật
hẹp còn lại và đồi núi là nơi không thuận lợi
cho cuộc sống và hoạt động kinh tế. Trong
khi đó dân số vẫn không ngừng gia tăng với mức
dự báo đến giữa thế kỷ XXI là khoảng
120 triệu người, tạo nên sức ép lớn đối
với kinh tế - xã hội và môi trường.
Bức tranh ảm đạm nêu trên hẳn
chỉ là bản phác họa xuất phát từ lối
tư duy “an phận thủ thường” và cách nhìn thụ
động, khi con người chịu bất lực ngồi
chờ thảm họa như một sự tiền định
bất khả kháng. Nhưng sự thật có phải mọi
sự sẽ xảy ra đúng như vậy?
II. SẴN SÀNG
ĐƯƠNG ĐẦU VỚI THÁCH THỨC
Rất may là, đến nay nhân loại
đã nhận thức được những nguy cơ của
sự biến đổi khí hậu toàn cầu và đang sẵn
sàng chung sức ứng phó. Nhân dân Việt
Tất cả những sự kiện nêu
trên nói lên một điều là trước những thách thức
của thiên nhiên, tổ tiên của chúng ta không chịu ứng
xử theo mưu kế của cổ nhân: “tẩu vi thượng
sách” mà luôn dũng cảm đương đầu và tiến
công để tồn tại và phát triển. Thế thì với
trình độ khoa học - kỹ thuật và tiềm lực
kinh tế ngày nay, thế hệ chúng ta không có lý do gì lại
chịu khuất phục trước những tai biến
thiên nhiên sắp tới. Vậy trước mắt chỉ
có một con đường: sẵn sàng và tích cực ứng
phó với thiên tai. Ứng phó bằng cách nào?
III. SUY NGHĨ
VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP ỨNG PHÓ VỚI NƯỚC
BIỂN DÂNG
Công cuộc chống nước biển
dâng chỉ là một phần của việc ứng phó với
sự biến đổi khí hậu toàn cầu và phải
được hoạch định trong một chiến
lược đồng bộ cấp quốc gia cũng
như quốc tế. Nhưng trong phạm vi một bài báo
nhỏ, với kiến thức còn hạn hẹp, tác giả
chỉ xin đề xuất một vài ý kiến sơ bộ
nhằm đóng góp với các nhà khoa học cũng như
các cấp quản lý hữu quan về những biện pháp
chủ yếu ứng phó với nguy cơ ngập mặn
lãnh thổ do sự xâm lấn của nước biển về
phương diện địa chất thủy văn và
địa kỹ thuật.
1. Củng cố và tăng cường hệ
thống đê biển
Như trên
đã nói, nước ta đã có một hệ thống
đê biển khá dài, nhưng phần lớn được
xây dựng từ lâu với kỹ thuật còn thô sơ, vật
liệu mềm yếu, lại đang bị xuống cấp
nghiêm trọng, chỉ chịu đựng được sức
tàn phá của những cơn bão yếu. Trong những
năm gần đây chỉ trải qua một số
cơn bão cấp 7-8 mà nhiều nơi đê đã bị phá
vỡ, gây thiệt hại nặng nề. Sắp đến,
dưới tác động của mực nước biển
dâng cùng với những trận bão lớn tới cấp 12
và hơn nữa, nhất là khi bão kết hợp với triều
cường, thì ắt hẳn các công trình “mong manh” hiện
tại không đủ sức chống đỡ. Vì vậy,
trong chiến lược quốc gia ứng phó với biến
đổi khí hậu, vấn đề đê điều
luôn được chú ý đặc biệt, trong đó đồng
thời với việc củng cố, nâng cấp các hệ
thống đê điều hiện có, Chính phủ sẽ
đầu tư xây dựng thêm những hệ thống
đê mới, trước mắt sẽ triển khai đoạn
từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang. Mục tiêu chung là
đến năm 2020 sẽ hoàn thành hệ thống đê
biển kiên cố trong toàn quốc, đủ sức chống
đỡ với bão cấp 12.
Trong sự nghiệp trị thủy vĩ
đại đó, địa chất thủy văn và địa
kỹ thuật có trách nhiêm tiến hành việc điều
tra, khảo sát chuyên môn trong xây dựng công trình thủy công,
nhằm góp phần bảo đảm hiệu quả và an
toàn cho hệ thông đê biển.
2. Đối
phó với sự xâm thực ven bờ
Đê biển chỉ bảo vệ
được phần sau thuộc dải đồng bằng
thấp, còn phần trước (nằm giữa bờ
đê với mép nước) là nơi phải trực tiếp
đương đầu với triều dâng, sóng vỗ,
bão dập, nước ăn mòn, sự xô đẩy của
dòng chảy ven bờ..., thì thường xuyên bị đe dọa
bởi sự sạt lở, rửa trôi những vật liệu
bở rời hay sụp đổ vách đá. Thêm vào đó,
những hoạt động của con người như
khai thác cát, đá, sa khoáng, đào ao đầm để
nuôi trồng thủy sản, chặt phá rừng ngập mặn,
cào xúc san hô..., cũng góp phần phá hủy nghiêm trọng
môi trường ven biển, tạo điều kiện cho
nước mặn xâm nhập về phía đất liền,
đe dọa sự an toàn của hệ thống đê biển.
Vì vậy, đi đôi với việc củng cố bờ
đê, cần chú ý bảo vệ đới ven bờ bằng
việc bê tông hóa sườn dốc, xây tường biển,
kè chắn sóng, kè hướng luồng, ... ở những
đoạn trọng yếu. Cần nghiêm cấm những
hoạt động vô ý thức của con người “tiếp
tay” cho sự tàn phá của thiên nhiên, đồng thời với
việc trồng các loài cây chịu mặn (sú, vẹt,
đước, mắm, đặt hệ thống “con
lươn” ngầm ven bờ bằng công nghệ Geocops,
Stabiplag, ...) và cỏ biển ở đới ngập
nước. Kinh nghiệm thực tế cho thấy các rừng
ngập mặn ven biển vừa có tác dụng chắn sóng
bảo vệ bờ, vừa tạo ra những bãi bồi mới,
mở rộng đất đai rất có hiệu quả.
Theo các phương tiện thông tin đại chúng, trong trận
sóng thần ngày 26/12/2004 ở Ấn Độ Dương,
ở những vùng biển có nhiều rừng ngập mặn,
sức tàn phá của sóng bị hạn chế rất nhiều
nên thiệt hại ít hơn. Ở những vùng cồn cát
trơ trọi ven biển cần tạo lớp phủ thực
vật để chống hiện tượng cát di động,
đồng thời ngăn giữ nước mưa, làm
tăng độ ẩm cho đất và tạo nguồn bổ
cấp tự nhiên cho nước dưới đất.
Đối với những vùng biển
nông và đảo chìm, cần phục hồi hoặc nuôi trồng
mới san hô. Chúng chính là đội quân chắn sóng và xây
đảo mới rất đắc lực.
3. Chống xâm
nhập mặn vào đất liền
Nên hiểu việc hoàn chỉnh hệ thống
đê biển không có nghĩa là xây một “vạn lý trường
thành” liên tục từ Bắc đến Nam, mà chỉ làm ở
những đoạn địa hình thấp, có nguy cơ
tràn ngập khi nước biển dâng hoặc chịu tác
động của bão tố, triều cường từ
biển Đông. Ngoài ra, vẫn cần phải duy trì sự
liên thông bình thường giữa biển với đất
liền qua các cửa sông, đầm phá, những khu đất
ngập nước ven bờ, ... nhằm mục đích
khai thác kinh tế (nuôi trồng, đánh bắt hải sản,
du lịch sinh thái, giao thông vận tải...), bảo tồn
đa dạng sinh học của hệ sinh thái nước
lợ. Đó chính là những “cửa sổ” để
nước biển xâm nhập vào đất liền, gây
nhiễm mặn nước mặt và nước dưới
đất dọc đới ven bờ.
Chúng ta biết rằng đặc điểm
của phần lớn địa hình lãnh thổ nước
ta là có độ nghiêng từ tây (miền núi) sang đông (miền
biển). Theo đó, phần lớn dòng mặt và dòng ngầm
cũng có hướng tây-đông hoặc TB-ĐN, đẩy
nước từ thượng nguồn về hạ
lưu theo cơ chế “dòng pit-tông” (piston flow). Ngược
lại, từ phía biển, do sự dâng-hạ của thủy
triều, nước mặn lại có xu hướng đẩy
ngược vào đất liền. Hai quá trình nghịch
đối đó tạo ra một fron mặn-nhạt ở
phía hạ lưu theo nguyên lý Ghyben-Herzberg. Trong điều kiện
bình thường, fron mặn-nhạt đó tồn tại ở
thế cân bằng động với độ xê dịch
không lớn lắm về phía này hay phía kia. Nhưng trong
tương lai, khi mực nước biển dâng cao thì cân
bằng sẽ bị phá vỡ, nước mặn sẽ
thắng thế, lấn sâu vào đất liền và tràn ngập
trên diện rộng. Vì vậy, ngay từ bây giờ phải
sớm nghĩ tới việc ứng phó với nguy cơ
này. Đây là một vấn đề rất phức tạp,
cần áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp
khác nhau. Riêng về phương diện địa chất
thủy văn và địa kỹ thuật, chúng tôi xin
đề xuất một vài biện pháp sau đây:
3.1. Ngăn chặn sự hạ thấp
mực nước ngầm và sụt lún mặt đất: Theo quy luật thủy động lực
học, sự xâm lấn của nước biển sẽ
gia tăng khi mực nước mặt cũng như
nước dưới đất trong đất liền
bị hạ thấp do những nguyên nhân tự nhiên (hạn
hán, vận động kiến tạo,...) cũng như
nhân tạo (khai thác nước quá mức, tháo khô hầm mỏ,
suy giảm nguồn bổ cấp do san lấp ao hồ....).
Sự hạ thấp mực nước dưới đất
lại kéo theo hậu quả sụt lún mặt đất.
Hiện nay, theo số liệu quan trắc
động thái nước dưới đất nhiều
năm của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên
nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường), mực
nước dưới đất ở phần hạ
lưu đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng
Cửu Long đều có xu hướng hạ thấp liên tục,
có nơi tới hàng chục mét, đặc biệt là những
vùng có công trình khai thác nước tập trung như Hà Nội,
Tp Hồ Chí Minh. Độ khoáng hóa của nước cũng
có biểu hiện tăng cao ở đới ven biển.
Trong thời gian tới, cùng với sự gia tăng dân số
và sự phát triển của công cuộc công nghiệp hóa,
đô thị hóa, nhu cầu về cung cấp nước
sinh hoạt và sản xuất chắc chắn cũng sẽ
gia tăng nhanh chóng và việc khai thác nước dưới
đất cũng như nước mặt đều phải
được đẩy mạnh với quy mô lớn, dẫn
đến hậu quả tất yếu là mực nước
dưới đất sẽ càng hạ thấp hơn.
Riêng đối với đồng bằng
Bắc Bộ, một mối đe dọa chưa lường
trước được, đó là sắp đến, nếu
việc khai thác bể than đồng bằng được
triển khai theo dự kiến, ắt hẳn phải tiến
hành việc tháo khô mỏ, tạo nên những phễu hạ
thấp mực nước trên phạm vi rộng. Điều
đó không những làm tiêu hao trữ lượng nước
dưới đất, mà còn gây ra sự hạ thấp
địa hình bề mặt đồng bằng, tạo
điều kiện cho nước biển lấn sâu về
phía thượng nguồn, làm trầm trọng thêm nạn lũ
lụt và nhiễm mặn đất đai.
Vì lẽ đó, mọi hoạt động
gây nguy cơ hạ thấp mực nước dưới
đất và sụt lún mặt đất cần được
kiểm soát chặt chẽ, kể cả nghiêm cấm triệt
để, nhằm bảo vệ lãnh thổ khỏi bị
tràn ngập và nhiễm mặn bởi nước biển
dâng.
Ở đồng bằng Cửu Long, một
đe dọa mới cũng sắp diễn ra: đó là một
số quốc gia thượng nguồn đã và đang xây
dựng hàng loạt hồ chứa hoặc đào kênh phân
dòng khiến cho lượng nước chảy về hạ
lưu suy giảm nghiêm trọng, nhất là về mùa khô, dẫn
đến hậu quả tất yếu là biên mặn sẽ
lấn sâu vào đất liền. Ngược lại, về
mùa mưa, do xả lũ mạnh ở thượng nguồn,
lượng nước dồn về hạ lưu thuộc
nước ta sẽ gia tăng gấp bội, làm cho diện
tích bị ngập mở rộng hơn và mức lũ cao
hơn. Đây là vấn đề không hiếm khi xảy ra
giữa các quốc gia có chung dòng sông xuyên biên giới, cần
sớm được giải quyêt bằng con đường
ngoại giao.
3.2. Xây
dựng hệ thống công trình bổ cấp nhân tạo
nước dưới đất: Đê biển chỉ
có tác dụng ngăn chặn sự tràn ngập bề mặt,
còn phần nước dưới đất vẫn có nguy
cơ bị nhiễm mặn nếu tầng chứa
nươc có quan hệ thủy lực với biển, nên
để chủ động đối phó cần áp dụng
các biên pháp đẩy lùi biên mặn-nhạt về phía biển,
trong đó biện pháp hữu hiệu nhất được
nhiều quốc gia áp dụng là công nghệ bổ cập
nhân tạo nước dưới đất. Ý tưởng
đó đã được các nhà khoa học nước ta
đề xuất từ lâu [3], nhưng tiếc rằng mãi
đến nay nó vẫn chưa trở thành hiện thực.
Vì vậy, nhân dịp bàn đến vấn đề chống
xâm nhập mặn do nước biển dâng, chúng tôi xin nhắc
lại vấn đề này với mong muốn nó sớm
được triển khai.
Nguyên lý cơ bản của công nghệ
bổ cấp nhân tạo là tích trữ nước mưa,
nước mặt vốn rất dồi dào về mùa
mưa, vào những hồ chứa hoặc hệ thống
kênh mương đào dọc theo đới ven biển, từ
đó nước ngấm vào lòng đất tạo thành “bức
tường” nước ngọt ngăn chặn hoặc
đẩy lùi “lưỡi” nước mặn ra biển. Ở
những nơi không có điều kiện xây hồ chứa
thì khoan những dãy giếng nạp nước từ ngoài
vào, cũng có tác dụng chống lại sự xâm nhập
mặn. Đối với những địa bàn hay công
trình trọng yếu cần được bảo vệ
nghiêm ngặt như thành phố, khu công nghiệp, ... thì có
thể áp dụng phương pháp “giếng đôi” bố
trí ở 2 bên biên mặn-nhạt, trong đó một giếng
nạp đặt ở phía nước ngọt dùng để
ép nước ngọt vào, giếng thứ hai đặt ở
phía nước mặn để hút nước mặn ra.
Do tác dụng một bên ép vào, một bên hút ra, biên mặn sẽ
bị đẩy lùi về phía biển. Cũng có thể
xây dựng đê ngầm kết hợp với giếng
tháo khô để chống xâm nhập mặn.
Ở những vùng mặt đất sụt
lún do khai thác nước dưới đất quá mức
hay sập lở hầm lò khai thác khoáng sản ngầm
dưới lòng đất thì phương pháp bổ cấp
nhân tạo nước dưới đất còn có tác dụng
phục hồi cao trình bề mặt ban đầu của
đồng bằng.
3.3. Hoàn thiện và mở rộng mạng
lưới quan trắc động thái nước dưới
đất và sụt lún mặt đất: Để có tài liệu thực tế
làm cơ sở tiến hành dự báo sự dâng cao mực
nước biển, nước mặt nội địa
và nước dưới đất, cần thiết lập
một hệ thống quan trắc hoàn chỉnh (việc
quan trắc mực nước biển và nước mặt
do ngành Khí tượng - Thủy văn quản lý nên ở
đây chúng tôi chỉ đề cập tới việc quan
trắc nước dưới đất).
Hiện nay, ở đồng bằng Bắc
Bộ và đồng bằng Nam Bộ đã có mạng
lưới quan trắc động thái nước dưới
đất tương đối hoàn chỉnh, hoạt
động trên 20 năm. Các tuyến quan trắc ở
đới duyên hải cho thấy mối quan hệ thủy
lực hoặc áp lực rõ rệt giữa biển và các tầng
chứa nước dưới đất, thể hiện
ở sự dao động đồng pha (hay chênh lệch
có quy luật) theo nhịp thủy triều. Về mặt
thủy địa hóa, qua tài liệu phân tích nước cũng
nhận thấy sự quan hệ giữa nước biển
với nước dưới đất nội địa.
Các kết quả quan trắc đã được tổng
hợp thành niên giám cung cấp cho các ngành, các địa
phương và đưa lên trang web phục vụ công tác quản
lý tài nguyên nước một cách có hiệu quả.
Hiện nay Trung tâm Quy hoạch và Điều
tra tài nguyên nước đang triển khai các dự án thiết
lập mạng lưới quan trắc động thái
nước dưới đất ở dải đồng
bằng Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ để trong
tương lai sẽ liên kết với các mạng lưới
quan trắc ở các đồng bằng Bắc Bộ và
Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc Bộ và Đông Bắc Bộ
thành mạng lưới quốc gia phủ kín toàn lãnh thổ.
Bên cạnh mạng lưới chung
đó, cần quan tâm xây dựng các mạng lưới
chuyên ở những địa bàn quan trọng ven biển cũng
như hải đảo và liên kết với những trạm
quan trắc khí tượng - thủy văn - hải văn
để thu thập tài liệu thực tế phục vụ
công tác đánh giá, dự báo một cách có hệ thống mực
nước biển dâng và xâm nhập mặn.
Để theo dõi quá trình sụt lún mặt
đất cần xây dựng hệ thống đo lún,
đặc biệt là tại những địa điểm
có công trình khai thác nước dưới đất tập
trung hay khai thác khoáng sản rắn bằng phương pháp
hầm lò.
4. Tiếp tục
mở rộng và thúc đẩy nhanh các công trình lấn biển
Các biện pháp ứng phó với nước
biển dâng nêu trên, xét cho cùng, chỉ là sự phòng thủ
thụ động. Còn có một cách tích cực hơn là
chính con người phải chủ động lấn biển.
Trên thực tế, trong thời gian qua một số địa
phương đã thực hiện thành công nhiều công
trình lấn biển. Theo số liệu thống kê trong khoảng
thời gian 1958-1994, chỉ
riêng vùng ven biển từ Quảng Ninh đến Ninh
Bình đã thực hiện được 56 dự án lấn
biển, tạo thêm được 55.465 ha đất mới
[1]. Và cũng gần đây thôi, tỉnh Kiên Giang vừa hoàn
thành công trình lấn biển ra vịnh Rạch Giá 420 ha và
đang xây dựng cơ sở hạ tầng để
thành lập 3 phường mới thuộc Tp Rạch Giá
trên diện tích đươc mở rộng này.
Những công trình như vậy thực sự
có ý nghĩa đối với công cuộc ứng phó với
nước biển dâng, nên sắp đến cần
được mở rộng ra những nơi khác với
tốc độ nhanh để kịp vượt lên
trước khi nước biển tràn tới.
Tuy nhiên, trong việc thực hiện các
công trình lấn biển cũng nên nhớ rằng khi ta tấn
công vào thiên nhiên thì thiên nhiên không dễ dàng chịu khuất
phục ngay mà cũng “phản công” trở lại, chẳng
hạn, khi ta lấn biển ở chỗ này, thì ở chỗ
kia sẽ xảy ra sự xói mòn, sạt lở, gây thiệt
hại lớn, cho nên phải
nghiên cứu, tính toán cẩn thận để tránh sự
“trả thù”, có khi không kém phần ác liệt của thiên
nhiên.
Bên cạnh những công trình lấn biển
nhân tạo, chính thiên nhiên có khi cũng trợ giúp đắc
lực cho con người thực hiện công cuộc mở
rộng đất đai bằng cách đưa phù sa vào các
con sông cho chuyển về hạ lưu để bồi
đắp cho những đồng bằng châu thổ, trong
đó trước hết phải kể đến “công trạng”
to lớn của sông Hồng và sông Mekong, mỗi năm mở
rộng đất đai ở vùng cửa sông ra hàng
trăm mét. Vì vậy, trong khi xây dựng các công trình lấn
biển, phải chú ý đừng làm gì cản trở các con
sông thực hiện chức năng lấn biển tự
nhiên của chúng.
5. Nâng cao mặt
bằng xây dựng và nền móng công trình ở vùng ven biển
Việc xây dựng quy hoạch tổng
thể phát triển đô thị, khu công nghiệp, hải
cảng, trung tâm du lịch, ... ở các vùng đồng bằng
ven biển phù hợp với mực nước biển
dâng theo các kịch bản biến đổi khí hậu
đã tính toán đang được các ngành hữu quan và
các địa phương xem xét ở tầm cỡ vĩ
mô.
Ở cấp vi mô và riêng về
phương diện địa kỹ thuật, khi lập
quy hoạch bố trí mặt bằng xây dựng cho từng
địa bàn cụ thể cũng như khi thiết kế
nền móng công trình, đặc biệt là những công trình
quan trọng có thể tồn tại qua nhiều thế kỷ,
cần xác định cao trình thích ứng nhằm bảo
đảm an toàn cả từ hai phía: nước mặt
tràn ngập từ trên và nước dưới đất
dâng trồi từ dưới.
IV. TĂNG
CƯỜNG QUAN HỆ QUỐC TẾ
Ứng phó với tai biến nước
biển dâng là công việc phức tạp, lâu dài, đòi hỏi
phải có sự đầu tư lớn và kỹ thuật
cao, nên ta cần có sự hợp tác quốc tế rộng
rãi. Trong số những chỗ dựa được các
cơ quan chức năng cũng như giới khoa học
nước ta trông đợi nhất là Hà Lan - xứ sở
được mệnh danh là “Miền đất thấp”
(
Bổ cấp nhân tạo nước
dưới đất để chống lại sự xâm
nhập mặn từ biển cũng là lĩnh vực công
nghệ mới mẻ đối với nước ta, nên
cần chú ý học hỏi kinh nghiệm của các nước
đi tiên phong, trước hết là Đức,
Một vấn đề hệ trọng
trong quan hệ quốc tế về ứng phó với
nước biển dâng và xâm nhập mặn trên lãnh thổ
nước ta đã được nêu ra ở trên, đó là
khả năng xảy ra những tranh chấp trong việc
khai thác, sử dụng những dòng sông xuyên biên giới
(sông Hồng, sông Mekong), cần được quan tâm giải
quyết sớm ở cấp chính phủ các nước hữu
quan.
V. THAY LỜI KẾT
LUẬN
Ứng phó với biến đổi khí
hậu và nước biển dâng là nhiệm vụ cấp
bách và trọng đại của cả cộng đồng.
Riêng địa chất thủy văn và địa kỹ
thuật càng có trách nhiệm nặng nề, nên ngay từ
bây giờ, với nhận thức đầy đủ về
thảm họa sinh thái sắp xảy ra, và với kỹ
năng chuyên môn của mình, cần tích cực và khẩn
trương tham gia vào công cuộc phòng tránh tai biến.
Tuy nhiên, cũng nên hiểu rằng nước
biển dâng không phải là hiện tượng tức thời,
xảy ra một sớm một chiều, mà nó diễn biến
từ từ, trải qua hàng chục, hàng trăm năm. Với
tiến trình đó, chúng ta còn có đủ thời gian chạy
đua và vượt qua thử
thách. Vì vậy, không nên hoang mang tưởng đâu
“ngày tận thế sắp đến”, mà hãy bình tĩnh, dũng
cảm và thông minh ứng phó với tai biến. Tin rằng
với tiến bộ khoa học - kỹ thuật và tiềm
lực kinh tế của đất nước trong thế
kỷ XXI, chúng ta có đủ khả năng giải quyết
những vấn đề công nghệ phức tạp để
“bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc”
(theo cả nghĩa đen).
VĂN LIỆU
1. Lê Xuân Hồng, Lê Thị Kim Thoa, 2007. Địa mạo bờ biển Việt
2. Phạm Khôi Nguyên, 2009. Việt
3. Võ Công Nghiệp, 1999. Bổ sung nhân tạo nước ngầm
- một biện pháp phòng chống hạn và làm giàu tài nguyên
nước. TC Hoạt động Khoa học, Hà Nội.