ĐẶC
ĐIỂM ĐỚI ĐỨT GÃY SÔNG MÃ TRONG KAINOZOI
NGUYỄN
VĂN HÙNG, HOÀNG QUANG VINH
Viện Địa Chất, Viện Khoa học và Công
Nghệ Việt Nam
Tóm tắt: Đới đứt gãy Sông Mã
trong Kainozoi có chiều dài trên 300 km với phần cơ bản
phân bố ở địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Những
nghiên cứu về kiến tạo vật lý, địa chất
địa mạo, địa hoá, địa nhiệt,
địa chấn... ở khu vực này cho thấy đới
đứt gãy hoạt động rất tích cực trong suốt
Kainozoi. Trong KZ sớm đới có đặc điểm dịch
chuyển bằng trái và bằng
trái nghịch. Trong KZ muộn đới phát triển toả
rộng về phía ĐN với tính chất trượt bằng
phải thuận là chủ yếu. Tính chất của đới
Sông Mã trong KZ muộn phản ánh cơ chế kéo tách trong việc
hình thành nên trũng Thanh Hoá; tính chất trượt giãn của
hệ thống đứt gãy phương TB-ĐN trên cánh
TN của đới đứt gãy Sông Hồng cũng
như ảnh hưởng của tách giãn võng Sông Hồng
lên rìa lục địa phía tây của nó.
Đới đứt gẫy Sông Mã nằm giữa các kiến trúc Sông Mã, Thanh Hoá (cánh ĐB) và kiến trúc Sầm Nưa - Hoành Sơn (cánh TN) [2]. Đới kéo dài từ Mường Ẳng (Điện Biên), nhưng phần cơ bản kéo dài từ biên giới Lào-Việt đến bờ biển Tĩnh Gia (Thanh Hoá). Các đứt gãy trong đới ở đây cắt qua tất cả các đá có tuổi từ Mesoproterozoi (MP). Riêng đầu ĐN của đới các đứt gãy còn cắt qua cả các thành tạo bazan Đệ tứ và các trầm tích bở rời Đệ tứ không phân chia phân bố dọc thung lũng sông Mã, sông Âm, sông Chu và ở đồng bằng Thanh Hoá [3, 5].
Những nghiên cứu mới đây cho thấy đới Sông Mã hoạt động rất tích cực. Những đặc điểm về hình thái cấu trúc cũng như chuyển động của đới đứt gãy này không những thể hiện rõ điều kiện địa động lực của miền Tây Bắc Bộ sinh ra do tác động qua lại giữa khối Indosini với khối Hoa Nam qua đứt gãy Sông Hồng, mà còn là kết quả phát triển của võng Sông Hồng ở phía đông lên phần rìa lục địa phía tây của võng này. Dưới đây là những đặc điểm chủ yếu của đới đứt gãy trong Kainozoi
Cấu trúc đới đứt gãy Sông Mã tại khu vực này rất phức tạp, bao gồm một đứt gãy chính (ĐGc), phân bố gần rìa TN, chạy suốt chiều dài của đới và nhiều đứt gãy phụ (ĐGp) ở hai bên. Các đứt gãy trong đới kết hợp với nhau tạo nên nhiều kiểu hình hài cấu trúc (Hình 1) và gồm một số đoạn:
- Đoạn Mường Lát - Lang Chánh, đới có phương TB-ĐN và gồm 2-3 ĐGp gần song song, nhưng hướng vào và gần sát với ĐGc tại Lang Chánh. Chiều rộng của đới đạt 12-16 km .
- Đoạn Lang Chánh - bờ biển gồm đới chính và các đới phụ toả rộng kiểu "đuôi ngựa". Ở đới chính các ĐGp song song với ĐGc, bắt đầu từ Lang Chánh theo phương BTB-NĐN kéo dài đến Bái Thượng, đổi sang phương TB-ĐN qua Bến En cắt ra phía bờ biển Tĩnh Gia. Đoạn này gồm ba đới phụ:
+ Đới phụ thứ nhất trên cánh ĐB tách ra từ Lang Chánh kéo dài đến Ngọc Lạc hơi uốn cong về phía nam rồi kéo dài ra phía bờ biển. Chiều rộng của nó khoảng 5-8 km.
+ Đới phụ thứ hai cũng trên cánh ĐB, tách ra từ Hạ Hai (nam Bái Thượng) theo phương TB - ĐN chạy dọc rìa TN Núi Nưa rồi cắt ra bờ biển. Nhánh này rộng 3-4 km.
Hình 1. Vị trí và cấu trúc đới đứt gãy Sông Mã
+ Đới phụ thứ ba trên cánh TN tách ra từ tây Bái Thượng, theo phương NĐN chạy về phía Hoàng Mai (Nghệ An) dài hơn 50 km.
Chiều rộng tổng cộng của đới đứt gãy Sông Mã ở đoạn này tăng từ 15 đến 20 km tại Ngọc Lạc lên 30-35 km tại đầu ĐN.
ĐGc theo tài liệu phân tích ba hệ khe nứt cộng ứng (3HKNCƯ) [3] trên suốt chiều dài đều dốc đứng, góc dốc khoảng 80-900, ít khi 700 (Hình 2) và nghiêng về hướng ĐB (40-600). Ở những đoạn có phương TB-ĐN, về hướng đông hoặc ĐĐB ở những đoạn phương á kinh tuyến, về hướng BĐB ở đoạn có phương á vĩ tuyến.
Các ĐGp có góc cắm thoải hơn 60-700, đôi chỗ 45-500, có hướng cắm thay đổi tuỳ thuộc vào vị trí, phương và mối quan hệ với ĐGc. Nhìn chung ở phần này của đới, ngược với ĐGc một số ĐGp trên cánh ĐB nghiêng về TN, một số khác lại song song hoặc ngả xa mặt trượt ĐGc (Hình 2). Trên cánh TN cũng có tình trạng tương tự. Quan hệ phức tạp này giữa các ĐGp với ĐGc là do kiểu cấu trúc, phản ánh tính chất trượt bằng của đới đứt gãy tại khu vực này tạo nên.
Hình 2. Thế nằm của các đứt
gãy trong đới Sông Mã (theo 3HKNCƯ)
II. ĐẶC
ĐIỂM CHUYỂN ĐỘNG
Phân tích khe nứt kiến tạo bằng các phương pháp cấu trúc động lực, dải khe nứt [3] và 3HKNCƯ ở hầu hết các điểm nghiên cứu đều xác định tính chất của đới đứt gãy chủ yếu là trượt bằng.
Cũng từ các kết quả phân tích trên đây, đã xác định được hai pha hoạt động với tính chất chủ yếu của đới đứt gãy như sau:
- Pha bằng trái chiếm ưu thế, tương ứng với trường ứng suất có S1 phương á vĩ tuyến, gần nằm ngang; S3 phương á kinh tuyến, gần nằm ngang; S2 gần thẳng đứng [5].
- Pha bằng phải chiếm ưu thế, tương ứng với trường ứng suất có S1 phương á kinh tuyến, gần nằm ngang; S3 phương á vĩ tuyến, gần nằm ngang; S2 gần thẳng đứng (Bảng 1-3, Hình 3) [3, 5].
Bảng
1. Kết quả phân tích khe nứt
kiến tạo đới đứt gãy Sông Mã
bằng phương pháp dải khe nứt (Pha muộn)
Điểm khảo sát |
Mặt trượt |
Phương trượt |
Tính chất |
TH855 |
70 Ð70 |
343Ð 8 |
Bp |
TH857 |
210 Ð70 |
130Ð12 |
Bp |
TH944 |
202Ð 68 |
132Ð 41 |
Bp-N |
TH945b |
45Ð 79 |
320Ð 25 |
Bp |
TH945 |
45Ð 72 |
131Ð 11 |
Bp |
TH946 |
36Ð 63 |
308Ð 5 |
Bp |
TH947 |
225Ð 84 |
312Ð 16 |
Bp |
TH 864 |
201Ð 78 |
288Ð13 |
Bp |
TH 915 |
234Ð72 |
145Ð3 |
Bp |
TH 920 |
252Ð63 |
340Ð4 |
Bp |
TH928b |
240Ð 80 |
313Ð 59 |
T-Bp |
TH 921b |
240Ð78 |
323Ð31 |
Bp-T |
TH 922 |
63Ð63 |
121Ð46 |
T-Bp |
TH 922b |
234Ð 81 |
317Ð 37 |
Bp-T |
TH 924 |
220Ð60 |
288Ð33 |
Bp-T |
TH 883 |
220Ð60 |
144Ð23 |
Bp |
TH 931 |
240Ð45 |
273Ð40 |
T-Bp |
TH882 |
72Ð 72 |
145Ð 40 |
Bp-T |
TH878 |
30Ð80 |
301Ð4 |
Bp |
TH893 |
50Ð80 |
137Ð19 |
Bp |
TH891 |
60Ð80 |
149Ð23 |
Bp |
TH880 |
72 Ð77 |
137Ð 53 |
T-Bp |
TH935 |
56Ð68 |
138Ð19 |
Bp |
TH876 |
63Ð72 |
336Ð9 |
Bp |
TH873 |
58Ð81 |
140Ð 41 |
Bp-T |
TH875 |
60Ð 80 |
125Ð 56 |
T-Bp |
TH851 |
56 Ð79 |
334Ð35 |
Bp-N |
TH852 |
50 Ð80 |
323Ð19 |
Bp |
TH853 |
45 Ð70 |
322Ð28 |
Bp |
TH854 |
200Ð 80 |
133 Ð18 |
Bp |
Ghi chú: Bp: bằng phải, Bp-N: bằng
phải nghịch, Bp-T: bằng phải thuận
Bảng 2. Kết
quả phân tích khe nứt kiến tạo đới đứt
gãy Sông Mã
bằng phương pháp cấu trúc động lực (pha
muộn)
Điểm |
Các trục ứng suất S |
Tính chất |
||
S1 |
S2 |
S2 |
||
TH856 |
347Ð8 |
245 Ð58 |
82 Ð31 |
Bp |
TH943 |
350Ð13 |
240Ð55 |
88 Ð30 |
Bp |
TH944 |
347Ð 25 |
176Ð 70 |
72Ð 10 |
Bp |
TH945 |
175Ð 30 |
355Ð 58 |
266Ð 0 |
Bp |
TH947 |
342Ð 19 |
162Ð 71 |
252Ð 0 |
Bp |
TH863 |
7Ð36 |
201Ð53 |
102Ð7 |
Bp-T |
TH
916 |
224Ð49 |
7Ð34 |
111Ð19 |
T-Bp |
TH
866 |
0Ð31 |
180 Ð60 |
270Ð0 |
Bp-T |
TH870 |
354Ð 7 |
210Ð 79 |
85Ð 6 |
Bp |
TH885 |
161Ð 57 |
353Ð 32 |
259Ð 6 |
T-Bp |
TH
921 |
192Ð46 |
4 Ð43 |
98Ð4 |
Bp-T |
TH
922 |
184Ð44 |
4 Ð46 |
274Ð0 |
Bp-T |
TH871 |
200 Ð32 |
355 Ð55 |
102Ð12 |
Bp-T |
TH890 |
180 Ð 31 |
353Ð 59 |
260Ð 0 |
Bp-T |
TH887 |
348Ð23 |
186Ð 66 |
81Ð 7 |
Bp |
TH933 |
186Ð9 |
326Ð79 |
95Ð7 |
Bp |
TH882 |
296Ð58 |
161Ð23 |
62Ð20 |
T-B |
TH879 |
313Ð 77 |
183Ð 13 |
222Ð 0 |
Tp |
TH880 |
318Ð 53 |
148Ð 36 |
55Ð 5 |
T-Bp |
TH881 |
0Ð36 |
180Ð54 |
270Ð0 |
Bp-T |
TH877 |
345Ð 40 |
182Ð 49 |
82Ð 9 |
Bp-T |
TH893 |
179Ð21 |
347Ð69 |
85Ð3 |
Bp |
TH894 |
15Ð0 |
285Ð79 |
105Ð11 |
Bp |
TH935 |
176Ð0 |
86Ð71 |
265Ð19 |
Bp |
TH876 |
190Ð30 |
10 Ð60 |
280Ð0 |
Bp |
TH873 |
177Ð13 |
10Ð77 |
268Ð3 |
Bp |
TH874 |
198Ð43 |
23Ð47 |
290 Ð3 |
Bp-T |
TH875b |
2Ð39 |
194Ð50 |
97Ð6 |
Bp-T |
TH851 |
187 Ð28 |
350Ð61 |
93 Ð8 |
Bp |
TH852 |
352 Ð10 |
111 Ð70 |
259Ð17 |
Bp |
TH853 |
170 Ð28 |
358 Ð62 |
267Ð0 |
Bp |
TH854 |
151Ð 6 |
260Ð 70 |
59Ð 19 |
Bp |
Ghi chú: Xem bảng 1
Đáng chú ý là trong pha trước ở những đoạn có phương á kinh tuyến, đới đứt gãy có tính chất trượt bằng trái nghịch (nghịch bằng trái) hoặc trượt nghịch. Tại đó, trường ứng suất thay đổi chút ít: S1 phương á vĩ tuyến, gần nằm ngang; S3 nghiêng một góc lớn hơn 300 hoặc gần thẳng đứng. Còn trong pha sau ở những đoạn đới đứt gãy (hoặc những đứt gãy hợp phần) có phương á kinh tuyến, tính chất thuận tăng lên, ở đây đới đứt gãy trượt bằng phải-T [3].
Phân tích sự biến dạng các yếu tố địa mạo (trong đó có các thành tạo Đệ tứ như thung lũng sông, suối, thềm, bãi bồi v.v...) cho phép xác định pha bằng phải xảy ra cả trong thời gian Đệ tứ và sau pha trượt bằng trái. So sánh những nghiên cứu trên với những nghiên cứu khác cho toàn khu vực thì pha bằng phải phải xảy ra trong thời kỳ Pliocen - Đệ tứ, còn pha bằng trái xảy ra trước đó - thời kỳ Paleogen - Miocen [3, 5].
Bảng 3. Kết
quả phân tích khe nứt kiến tạo đới đứt
gãy Sông Mã
bằng phương pháp 3HKNCƯ (pha muộn)
Điểm khảo sát |
Các hệ khe nứt cộng ứng (H) |
Mặt trượt |
Tính chất |
||
Hệ thứ nhất (H1) |
Hệ thứ hai (H2) |
Hệ thứ ba (H3) |
|||
TH945 |
50 Ð70 |
300Ð70 |
225Ð30 |
50Ð70 |
Bp |
TH945b |
50Ð 80 |
120Ð80 |
270Ð30 |
50Ð80 |
Bp |
TH943 |
210Ð80 |
130Ð80 |
325Ð30 |
210Ð80 |
Bp |
TH944b |
210Ð70 |
100Ð80 |
320Ð28 |
210Ð70 |
Bp |
TH859 |
220Ð80 |
310Ð80 |
35Ð28 |
220Ð80 |
Bp |
TH
920b |
260Ð70 |
170Ð70 |
200Ð30 |
260Ð70 |
Bp-T |
TH929 |
70Ð75 |
345Ð60 |
195Ð40 |
70Ð75 |
Bp-T |
TH
928b |
240Ð80 |
150Ð70 |
30Ð35 |
240Ð80 |
Bp-T |
TH927 |
50Ð75 |
300Ð70 |
200Ð30 |
50Ð70 |
Bp |
TH866 |
225Ð70 |
130Ð70 |
25Ð25 |
225Ð70 |
Bp-T |
TH866b |
45Ð80 |
340Ð80 |
190Ð32 |
45Ð80 |
Bp-T |
TH867 |
70Ð75 |
340Ð80 |
240Ð35 |
70Ð75 |
Bp-T |
Th868 |
60Ð60 |
240Ð80 |
280Ð30 |
60Ð60 |
Bp-T |
TH870 |
230Ð80 |
120Ð90 |
0Ð30 |
130Ð80 |
Bp-T |
TH885 |
68Ð68 |
304Ð34 |
180Ð79 |
68Ð68 |
T-Bp |
TH
921 |
77Ð 73 |
330Ð70 |
180Ð45 |
77 Ð73 |
Bp-T |
TH
922 |
60Ð70 |
180Ð75 |
300Ð50 |
60Ð70 |
T-Bp |
TH922b |
240Ð75 |
150Ð75 |
350Ð35 |
240Ð75 |
Bp-T |
TH
924 |
230Ð70 |
340Ð80 |
80Ð45 |
230Ð70 |
Bp-T |
TH926 |
54Ð78 |
130Ð60 |
300Ð30 |
54Ð78 |
Bp-T |
TH871 |
70Ð70 |
300Ð70 |
230Ð35 |
70Ð70 |
Bp -T |
TH882 |
70Ð80 |
340Ð50 |
0Ð80 |
70Ð80 |
T-Bp |
TH882b |
230Ð80 |
285Ð70 |
80Ð40 |
230Ð80 |
Bp-T |
TH
883 |
50Ð 80 |
330Ð70 |
200Ð30 |
50Ð80 |
Bp |
TH890b |
240 Ð70 |
160Ð70 |
355Ð30 |
240Ð70 |
Bp |
TH890 |
45Ð 70 |
300Ð70 |
170Ð30 |
45Ð70 |
Bp |
TH892 |
40Ð80 |
320Ð70 |
180Ð30 |
40Ð80 |
Bp |
TH893 |
50Ð80 |
340Ð70 |
210Ð20 |
50Ð80 |
Bp |
TH891 |
60Ð80 |
170Ð85 |
275Ð40 |
60Ð80 |
Bp |
TH879 |
54Ð60 |
210Ð50 |
335Ð70 |
54Ð60 |
T-Bp |
TH880 |
72Ð72 |
335Ð70 |
190Ð35 |
72Ð72 |
Bp-T |
TH881 |
236Ð68 |
146Ð79 |
343Ð45 |
236Ð68 |
Bp-T |
TH935 |
60Ð70 |
320Ð80 |
180Ð35 |
60Ð70 |
Bp |
TH876 |
60 70 |
320 70 |
190 20 |
60 70 |
Bp |
TH872 |
50Ð80 |
140Ð85 |
330Ð30 |
50Ð80 |
Bp |
TH873 |
60 Ð60 |
150Ð70 |
270Ð50 |
60Ð60 |
Bp |
TH852 |
50Ð80 |
110Ð70 |
240Ð30 |
50Ð80 |
Bp |
TH851 |
60Ð80 |
310Ð60 |
310Ð30 |
60Ð80 |
Bp |
TH853 |
50Ð70 |
310Ð70 |
180Ð20 |
45Ð70 |
Bp |
TH854 |
200Ð80 |
290Ð80 |
100Ð30 |
200Ð80 |
Bp |
Hình 3. Tính chất của đới
đứt gãy Sông Mã theo kết quả phân tích khe nứt kiến
tạo
bằng phương pháp 3HKNCƯ (pha muộn).
Trong pha sớm, tại các vùng Lâm Phú, Làng Trà (huyện Lang Chánh, Thanh Hoá) đã tìm thấy hai vị trí có dấu vết các thung lũng cổ bị dịch chuyển trái (Hình 5). Đó là những dải địa hình trũng thấp mang hình thái của những thung lũng xâm thực. Dấu vết nguồn gốc của nó còn tìm thấy là các mảnh bề mặt tương đối bằng phẳng dưới dạng các mảnh đồi sót phân bố dọc theo đáy thung lũng, nằm trên cùng một độ cao tương đối so với đáy suối hiện tại và cao hơn các thành tạo Đệ tứ có mặt trong các thung lũng đó.
Dịch chuyển trái tại vị trí này là 600 m nhưng các thành tạo Đệ tứ của dòng suối hiện đại tại đó lại bị dịch chuyển phải khoảng 100 m. Như vậy "thung lũng" này đã bị dịch trái 700 m (Hình 4).
Trong pha muộn (Pliocen - Đệ tứ ), những dấu hiệu dịch chuyển phải của đới cũng thu thập được ở một số nơi.
Tại Lâm Phú (Lang Chánh) dọc theo thung lũng suối chảy vuông góc với đới, các đứt gãy đã làm dịch chuyển phải nhiều đoạn với biên độ khác nhau. Về phía tây đoạn suối vừa mô tả, một số đứt gãy khác cũng làm dịch chuyển các đường chia nước ở đó. Tổng biên độ dịch chuyển của các đứt gãy trong đới đây là 950 m (Hình 4).
Tại Khe Hạ (phía nam Bái Thượng) và Yên Cát, các dứt gãy cũng làm dịch chuyển các thung lũng suối và các đường chia nước với biên độ tổng cộng là 1600-1700 m (Hình 5).
Hình
4. Dịch chuyển của các
đứt gãy trong đới đứt gãy Sông Mã tại
Lâm Phú.
Với biên độ trên, nếu tính cho cả thời kỳ Pliocen - Đệ tứ (6 Tr.n.) thì tốc độ Bp của đới đứt gãy Sông Mã sẽ đạt từ 0,15 đến 0,3 mm/n. Nếu tính cho riêng giai đoạn Đệ tứ (1 Tr.n.) sẽ đạt giá trị 0,9 -1,7 mm/n.
Hoạt động hiện đại tích cực của đới đứt gãy được khẳng định bằng hàng loạt các dấu hiệu khác nhau:
- Các dị thường cao địa hóa đặc biệt như Ra, Hg, CO2, CH4 đã được tìm thấy ở các vùng ở Bá Thước, Lang Chánh, Thường Xuân và Mục Sơn [5, 7].
- Các dị thường địa nhiệt phản ánh tính hoạt động hiện đại của đới đứt gãy cũng thể hiện khá rõ ở các vùng Bái Thượng và Tĩnh Gia [3, 5].
- Nhiều điểm nứt - trượt đất lớn xuất hiện lặp lại nhiều lần và phân bố thành dải kéo dài, cũng xuất hiện tại nhiều nơi dọc theo đới đứt gãy như ở đèo Tâng Quái (Mường Ảng), thị trấn Sông Mã (Sơn La), Quảng Trường (Quảng Xương) [5].
Điểm xuất lộ nước nóng ở Lâm Phú (Lang Chánh) nằm trong đới đứt gãy cũng là bằng chứng về sự hoạt động hiện đại của nó [5].
Hình 5. Dịch chuyển của các đứt
gãy trong đới đứt gãy Sông Mã tại Khe Hạ.
III. THẢO LUẬN
VÀ KẾT LUẬN
Tất cả các dẫn liệu trên đây cho phép đi đến một số kết luận về đặc điểm đới đứt gãy tân kiến tạo Sông Mã như sau:
1. Đới đứt gãy Sông Mã dài trên 300 km (trong đó vùng nghiên cứu đạt gần 200 km), có phương chung TB-ĐN với nhiều đoạn thay đổi phương chút ít.
2. Đới có cấu trúc rất phức tạp, phát triển nhiều nhánh phụ, chủ yếu là trên cánh ĐB. Trên phần lớn chiều dài của đới (từ Mường Lát đến Lang Chánh) có kiểu cấu trúc song song, phần ĐN còn lại (đoạn Lang Chánh - bờ biển), đới thể hiện rõ kiểu cấu trúc "đuôi ngựa" .
3. Đới đứt gãy đã trải qua hai pha hoạt động trong Kainozoi với tính chất chủ yếu là trượt bằng: bằng trái trong pha sớm và trượt bằng phải có thành phần thuận trong pha muộn hơn.
4. Các thành tạo địa mạo tuổi Pliocen - Đệ tứ bị biến dạng phải trong đới đứt gãy là cơ sở để khẳng định pha muộn đã xảy ra trong giai đoạn này với biên độ bằng phải 900-200 m tương ứng với tốc độ từ 0,15 đến 0,2-0,3 mm/n nếu tính cho 6 Tr. n. và từ 0,9 đến 1,7 mm/n nếu tính cho 1 Tr. n..
Cũng dựa trên những dấu hiệu địa mạo, biên độ dịch chuyển trái của đới đứt gãy có thể đạt khoảng 7-7,5 km, tương ứng với tốc độ khoảng 0,4 mm/n nếu tính cho khoảng thời gian từ 23 Tr. n. đến 6 Tr. n. trước.
5. Hoạt động hiện đại của đới đứt gãy rất mạnh mẽ, được thể hiện ở các dị thường cao về địa hoá và địa nhiệt, các hoạt động nứt trượt đất ở nhiều nơi, hoạt động địa chấn mạnh và tiềm năng phát sinh những trận động đất lớn tới 6,5-7,0 độ Richter [1].
6. Sự phân nhánh và toả rộng về phía ĐN đi đôi với hợp phần thuận tăng lên trong đới đứt gãy đã chỉ ra đặc điểm trượt bằng phải thuận theo cơ chế kéo tách tại khu vực này của đới đứt gãy. Cơ chế đó cũng là động lực chính để hình thành đồng bằng Thanh Hoá trong Kainozoi muộn.
7. Trên bình đồ cấu trúc Kainozoi khu vực, đặc điểm trên đây của đới đứt gãy kết hợp với tính chất trượt bằng phảỉ thuận của hầu hết đới đứt gãy phương TB-ĐN của miền Tây Bắc Bộ [3] đã thể hiện rất rõ tính chất giãn - trượt kiểu đuôi ngựa trên cánh TN của đới đứt gãy Sông Hồng, đồng thời cũng là dấu hiệu đáng tin cậy về ảnh hưởng của trũng kéo tách Sông Hồng lên rìa lục địa phía tây của nó.
Công trình này là kết quả
của đề tài NCCB do Bộ Khoa học và Công Nghệ
tài trợ.
VĂN LIỆU
1. Cao Đình Triều, Nguyễn Danh Soạn, 1998. Hệ thống đứt gãy
chính lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở phân tích kết hợp
tài liệu trọng lực, từ và ảnh vệ tinh. TC
Địa chất, A/ 247 : 17-27. Hà Nội.
2. Lê Duy Bách, Ngô Gia Thắng, 1996. Phân vùng kiến tạo Tây
Bắc Việt
3. Lê Như Lai, 1996. Những nét cơ bản về cấu trúc kiến tạo
Tây Bắc Việt Nam. Báo cáo
HNKH lần thứ 12, Trường ĐH Mỏ-Địa
chất, 4: 56-60. Hà Nội.
4. Nguyễn Đình Xuyên, Nguyễn Ngọc Thuỷ, 1997. Tính động đất và
độ nguy hiểm động đất trên lãnh thổ
Việt Nam. Công trình nghiên cứu Vật lý Địa cầu 1987
- 1997, tr. 36-91, Nxb KH&KT, Hà Nội.
5. Nguyễn Trọng Yêm (Chủ
biên), 2001. Thiên
tai nứt đất lãnh thổ Việt Nam và các biện
pháp phòng tránh giảm nhẹ thiệt hại. BC đề
tài cấp Nhà nước.
Lưu trữ Viện Địa chất, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Hùng, 2002. Đặc điểm
cơ bản của đứt gãy tân kiến tạo Tây Bắc
Việt
7. Nguyễn Văn Phổ, 2002. Biểu hiện hoạt động
hiện đại của các đứt gãy khu vực Tây bắc
theo kết quả đo radon.
Tuyển tập HTKH “Động đất và một số
dạng tai biến tự nhiên khác vùng Tây Bắc Việt
Nam”, tr. 199 - 201. Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội.
8. Trần Văn Trị (Chủ biên), 1977. Địa chất Việt Nam
- Phần Miền Bắc. Nxb KHKT, Hà Nội.