ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ TỔN
THƯƠNG TÀI NGUYÊN ĐỊA CHẤT, ĐỊNH HƯỚNG
SỬ DỤNG BỀN VỮNG VỊNH GÀNH RÁI, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
NGUYỄN
THỊ HỒNG HUẾ1, MAI TRỌNG NHUẬN2,
NGUYỄN TÀI TUỆ1,3,
NGUYỄN THỊ MINH NGỌC1, ĐỖ THÙY LINH1,
PHẠM BẢO NGỌC1, LƯU VIỆT DŨNG1
1
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
Đại học Quốc gia Hà Nội
2 Đại học Quốc gia Hà Nội; 3
Đại học Ehime, Nhật Bản
Tóm tắt: Vịnh Gành Rái là một trong các vũng vịnh
đóng vai trò quan trọng ở miền Đông
Dựa vào ba nhóm yếu tố gồm các yếu tố
gây tổn thương (các tai biến và yếu tố
cường hóa tai biến), các đối tượng bị
tổn thương (tài nguyên vị thế, kỳ quan địa
chất, đất ngập nước và tài nguyên khoáng sản)
và khả năng ứng phó của hệ thống tự
nhiên - xã hội, đã phân vùng
mức độ tổn thương tài nguyên địa chất
vịnh Gành Rái thành 4 mức: thấp, trung bình, tương
đối cao và cao. Trên cơ sở đó, một số giải
pháp sử dụng hợp lý tài nguyên địa chất
được đề xuất: quản lý, tuyên truyền
và giáo dục, giảm thiểu thiệt hại do tai biến,
quy hoạch sử dụng tài nguyên địa chất.
I. MỞ ĐẦU
Với
khoảng 3.260 km đường bờ biển, Việt Nam
có 48 vũng, vịnh biển lớn nhỏ, chiếm diện
tích 3997 km2 [19]. Các vũng, vịnh có vai trò vô cùng
quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội
cũng như an ninh quốc phòng của đất nước.
Vịnh
Gành Rái nằm ở khu vực biển Đông Nam Bộ, giữa
hai thành phố lớn là Vũng Tàu và Tp Hồ Chí Minh, tiếp
giáp với Khu Dự trữ sinh quyển Cần Giờ
(Hình 1). Vịnh phong phú các nguồn tài nguyên nói chung và tài
nguyên địa chất (TNĐC) nói riêng, trong đó,
TNĐC là sản phẩm của quá trình địa chất
mà con người có thể khai thác, sử dụng [15]. Có thể
phân biệt được 2 nhóm TNĐC: không tái tạo
được (khoáng sản, kỳ quan địa chất
(KQĐC), tài nguyên vị thế) và tái tạo được
(một bộ phận đất ngập nước). Khu
vực vịnh Gành Rái có tài nguyên vị thế với hệ
thống cảng phát triển mạnh (cảng Vũng Tàu, cảng
Cái Mép); KQĐC với các bãi biển đẹp (bãi Trước,
bãi Sau, bãi Dứa…); phong phú về đất ngập nước
(ĐNN) với sự giàu có về hệ sinh thái rừng ngập
mặn (RNM) ở Tân Thành, thị xã Bà Rịa và sự
đa dạng về các loại khoáng sản tạo nhiều
tiềm năng cho phát triển kinh tế - xã hội (du lịch,
cảng biển, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS), khai thác
thủy sản…).
Tuy
nhiên, vịnh Gành Rái cũng chịu nhiều tác động
của các yếu tố gây tổn thương mà điển
hình là các tai biến: xói lở (điển hình là đoạn
từ Cửa Lấp đến mũi Nghinh Phong), bồi tụ
gây biến động luồng lạch (cửa Lấp, cửa
sông Dinh), ô nhiễm môi trường (tại các cảng biển,
cửa sông như cảng cửa Lấp, cảng Sao Mai - Bến
Đình, cảng Cát Lở, sông Thị Vải…), sự cố
tràn dầu... Cùng với đó là các hoạt động khai
thác, sử dụng TNĐC thiếu bền vững như
nuôi trồng và khai thác thuỷ hải sản (cửa Lấp,
cửa sông Dinh, Long Sơn…); giao thông vận tải biển
và du lịch (Tp Vũng Tàu); công nghiệp (Phú Mỹ, Mỹ
Xuân huyện Tân Thành)... Bên cạnh đó, khả năng ứng
phó của hệ thống tự nhiên - xã hội (các hoạt
động bảo vệ, quản lý TNĐC, nhận thức
của cộng đồng về giá trị và chức
năng TNĐC…) chưa cao. Chính các yếu tố này tác
động xấu tới TNĐC như suy kiệt về
số lượng, suy thoái về chất lượng, suy
giảm đa dạng sinh học và chất lượng môi
trường dẫn tới tăng mức độ tổn
thương TNĐC. Do đó, mức độ tổn
thương TNĐC vũng vịnh được đánh
giá dựa trên các tiêu chí lựa chọn. Kết quả
đánh giá sẽ góp phần định hướng sử
dụng bền vững vũng vịnh Việt Nam với
các giải pháp quản lý, tuyên truyền giáo dục, quy hoạch
sử dụng TNĐC, giảm thiểu thiệt hại do
tai biến.
Hình
1. Vị trí vùng nghiên cứu
II.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hiện
nay, các phương pháp và các tiêu chí đánh giá mức độ
tổn thương được xây dựng chủ yếu
dựa trên 3 nhóm yếu tố: các yếu tố gây tổn
thương (các tai biến, sự biến đổi khí hậu
toàn cầu…); các đối tượng bị tổn
thương (khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế,
tài nguyên…) và khả năng ứng phó của hệ thống
tự nhiên - xã hội (cơ sở hạ tầng, trình
độ dân trí, sức khỏe, giới tính...). Điển
hình là mô hình, quy trình và tiêu chí tổn thương xã hội
(SoVI) của Cutter, NOAA [2, 3, 8]; tiêu chí tổn thương
môi trường của SOPAC [18]; tiêu chí tổn thương
đới ven bờ của Sở Địa chất Hoa Kỳ
[4]; quy trình đánh giá tổn thương của hệ thống
tự nhiên - xã hội ở đới ven biển Việt
Nam của Mai Trọng Nhuận và cộng sự [6, 9, 14,
17]. Kế thừa những nghiên cứu đã có và áp dụng
cho đặc điểm vũng vịnh Việt
Hình 2. Mô hình đánh giá mức độ
tổn thương tài nguyên địa chất vũng vịnh
Việt Nam
III. ĐÁNH GIÁ
MỨC ĐỘ TỔN THƯƠNG TÀI NGUYÊN ĐỊA CHẤT
1. Các tiêu chí
đánh giá
Tiêu chí đánh giá tổn thương
TNĐC được chia thành 3 nhóm yếu tố: các yếu
tố gây tổn thương (gồm các tiêu chí về tai biến,
các yếu tố cường hóa tai biến); các đối
tượng bị tổn thương (các kiểu TNĐC)
và khả năng ứng phó của hệ thống tự
nhiên - xã hội (khả năng chống chịu/phục hồi
của hệ thống tự nhiên, tiềm lực ứng
phó của hệ thống xã hội). Trong các tiêu chí đã lựa
chọn, một số tiêu chí vừa là yếu tố gây tổn
thương (hoặc đối tượng bị tổn
thương) đồng thời đóng vai trò là tiêu chí
đánh giá khả năng ứng phó (Bảng 1).
a. Các tiêu chí về yếu tố
gây tổn thương:
- Tai biến: gồm xói lở, bồi tụ gây biến
động luồng lạch, bão và lũ lụt, dâng cao mực
nước biển, sự cố tràn dầu, ô nhiễm môi
trường và động đất. Các thông tin lựa chọn
chính là cường độ, tần suất và phạm vi ảnh
hưởng của từng tai biến, trong đó, xói lở,
bồi tụ gây biến động luồng lạch, ô nhiễm
môi trường và sự cố tràn dầu xảy ra với
cường độ mạnh, tần suất lớn trên
phạm vi rộng. Tiếp đến là bão và lũ lụt,
dâng cao mực nước biển và động đất.
Xói lở xảy ra tương đối
mạnh, điển hình là đoạn bờ từ cửa
Lấp đến mũi Nghinh Phong (tạo vách cao khoảng
1-1,5 m). So với bản đồ UTM-1965, đường
bờ biển đã bị lấn sâu vào đất liền
hàng trăm mét, đặc biệt trong nhiều năm gần
đây, trung bình biển lấn sâu vào đất liền
12-15 m/năm [7]. Hậu quả là phá hủy kè bao chống
xói lở (Hình 3), làm mất giá trị cảnh quan bãi tắm
và đe dọa nhà dân, làm suy
thoái và chết nhiều diện tích rừng phòng hộ
(kể cả RNM).
Bồi tụ gây biến động luồng
lạch xảy ra ở hầu hết các cửa sông, cảng
biển của khu vực. Điển hình là vùng cửa Lấp,
quá trình bồi lấp đã tạo nên các cồn cát dài 0,5-1
km và doi cát ngầm ở vùng cửa sông [12, 13]. Hoạt
động này đang cường hóa quá trình xói lở, làm
nông cạn luồng lạch và gây nguy hiểm cho tàu, thuyền.
Nhằm duy trì và phát triển hoạt động giao thông biển
và bảo vệ tài nguyên vị thế (cảng biển),
hàng năm ở các khu vực cửa sông đã phải chi
lượng lớn kinh phí để tiến hành nạo
vét, khơi thông dòng chảy. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường,
ước tính đến năm 2020, tổng khối lượng
bùn, đất nạo vét tại 18 luồng, cảng, tuyến
sông, khu công nghiệp là hơn 27,6 triệu m3 với
kinh phí khoảng 128 tỉ đồng.
Hình 4. Sự cố tràn dầu tháng 9/2001.
Mực nước biển được
dự báo sẽ dâng cao khoảng 23-117 cm vào năm 2050 và
56-345 cm vào năm 2100 [20]. Theo Nguyễn Ngọc Thụy, ở
ven biển Việt
Sự cố
tràn dầu xảy ra thường gây những hậu quả
nghiêm trọng cho tài nguyên, môi trường ven biển nói
chung, và vũng vịnh nói riêng. Theo Tổng cục Môi
trường, tính đến tháng 6/2007, tổng thiệt hại
do tràn dầu ở Việt Nam khoảng 76,8 tỷ đồng,
trong đó chi phí thu gom gần 1,2 tỷ đồng. Ngành du
lịch bị thiệt hại nghiêm trọng nhất (44,9 tỷ
đồng), tiếp đến là ngành thủy sản (28,4
tỷ đồng), nông nghiệp (1,6 tỷ đồng). Ở
vịnh Gành Rái, sự cố tràn dầu xảy ra với tần
suất lớn chủ yếu do sự cố đâm, va,
chìm tàu và dò rỉ dầu từ các tàu. Trong giai đoạn
1993 - 1998, khu vực có 30 tàu bị chìm với khoảng 3.200
tấn dầu thải ra môi trường [12]. Điển
hình là tàu Formosa One đâm tàu Petrolimex ngày 7/9/2001, làm tràn 750 tấn
dầu ra biển, ảnh hưởng nghiêm trọng tới
các ngành kinh tế và môi trường đoạn từ mũi
Nghinh Phong đến khu Sao Mai - Bến Đình (Hình 4). Gần đây là các vụ rò rỉ
dầu trong tháng 2-3/2007, đã gây suy thoái lớn các hệ
sinh thái ven biển. Lượng dầu thu gom ở các bãi tắm
của Tp Vũng Tàu lên tới
hơn 12 tấn.
Môi trường
vịnh Gành Rái có nguy cơ ô nhiễm Mn, Pb và Cd trong môi
trường nước và ô nhiễm Hg, nguy cơ ô nhiễm
Sb, As trong môi trường trầm tích [10, 12, 13]. Cụ thể
là, môi trường nước có nguy cơ ô nhiễm Pb ở phía tây Cù Lao Bến Đình, hàm lượng
khoảng 12-14.10-4 mg/l (cao gấp hơn 40 lần
hàm lượng trung bình trong nước biển thế giới,
tuy chưa vượt quá tiêu chuẩn Việt Nam 5943-1995). Các
dị thường Mn, Cd ở các vùng cửa sông Mũi
Giui, sông Dinh (0-5 m nước) có hàm lượng 120-210.10‑4
mg/l và 3,5-6,4.10-4 mg/l (cao gấp 6-10,5 lần và
3,5-6,4 lần hàm lượng trung bình trong nước biển
thế giới). Trong môi trường
trầm tích (0-6 m), các dị thường Hg xác định ở
vùng bến Đình, xã Long Sơn và ở các cửa sông Ngã Bảy
và Cái Mép, với hàm lượng 0,3 - 0,5.10-4%. Các dị
thường Sb phân bố ở một số
vùng như cảng Cái Lở và
cửa sông Cái Mép với hàm lượng 4-5.10-4% (cao
gấp 2,85-3,57 lần so với tiêu chuẩn ô nhiễm môi
trường trong trầm tích của Canada).
- Các yếu tố cường hóa tai
biến: Hoạt động công nghiệp (lượng chất
thải khổng lồ của nhà máy Vedan đổ trực
tiếp ra sông Thị Vải là 105.600 m3/tháng cùng với
các khu công nghiệp Mỹ Xuân A, Nhơn Trạch 1…) và hoạt
động giao thông vận tải biển (lượng chất
thải sinh hoạt và dầu mỡ ở các cảng Cái
Mép, Sao Mai - Bến Đình, sông Dinh) gây ô nhiễm môi trường,
tràn dầu; phát triển NTTS ồ ạt, khai thác khoáng sản
bằng dụng cụ hủy diệt (thuốc nổ, xung
điện) và chặt RNM lấy đất NTTS và làm muối
(ở xã Long Sơn, phường 11, cửa Lấp…) làm
cường hóa các tai biến xói lở, bồi tụ gây biến
động luồng lạch, nhiễm mặn, ô nhiễm
môi trường. Thêm vào đó là các yếu tố tự
nhiên như địa hình, địa mạo, các thành tạo
địa chất ven biển (bùn, bùn cát, cát và đá gốc)
có tính chất cường hóa hoặc hạn chế tai biến.
b.
Các tiêu chí về đối tượng bị tổn
thương:
- Tài
nguyên vị thế: gồm
các mũi nhô (mũi Nghinh Phong, mũi Gành Rái); các khu cảng
biển, cảng cá (khu cảng Vũng Tàu - sông Dinh, khu cảng
Cái Mép, khu cảng Phú Mỹ…); cửa sông (cửa Lấp, cửa
sông Dinh, cửa sông Mũi Giui, sông Cái Mép). Tài nguyên này
đang được khai thác khá mạnh mẽ trong phát triển
du lịch (khu du lịch mũi Nghinh Phong, núi Lớn, núi Nhỏ),
thủy sản và giao thông biển. Bên cạnh đó, các mũi
nhô còn tạo dạng vịnh nửa kín có khả năng chắn
sóng, gió, là địa điểm thuận lợi cho các loại
tàu thuyền neo đậu trong những ngày biển động.
- Cảnh
quan đẹp về địa chất: bờ biển thoải, bãi biển với
các thành tạo cát trắng tạo điều kiện du lịch
lý tưởng hấp dẫn du khách đến tham quan, tắm
biển, nghỉ dưỡng ở khu vực. Các khu du lịch
phát triển trên loại hình này có thể kể đến
như: khu bãi Sau, bãi Trước, bãi Dứa, bãi Dâu, bãi Thùy
Vân, khu giải trí Paradise (Hình 5).
Đất ngập nước gồm
9 kiểu: vùng biển có độ sâu 6 m nước khi triều
kiệt, vùng nước cửa sông, bãi cát vùng gian triều,
bãi cát/bùn vùng gian triều, RNM, vùng NTTS mặn/lợ, vùng làm
muối, sông suối, vùng trồng lúa [16]. Vùng biển có
độ sâu dưới 6m khi triều kiệt chiếm khoảng
5.138 ha, là ngư trường khai thác thủy hải sản.
Vùng cửa sông, với 1.213 ha, là môi trường thuận lợi
cho NTTS, giao thông vận tải, khai thác cát, như vùng cửa
Lấp, cửa sông Dinh. RNM chiếm 10.819 ha, đóng vai trò
quan trọng bảo vệ bờ biển và môi trường
ven biển. Tuy nhiên, nhiều diện tích RNM đã và đang
được chuyển đổi thành đất NTTS (xã
Long Sơn, phường 11, 12 của Tp Vũng Tàu) và xây dựng
các khu công nghiệp, khu đô thị dọc đường
51 (Hình 6). Vùng NTTS mặn/lợ có khoảng 1.524 ha, chủ yếu
phát triển ở các bãi triều có RNM, gần cửa sông.
- Tài nguyên khoáng sản: gồm khoáng sản kim loại
như mỏ ilmenit Vũng Tàu với trữ lượng
70.000 tấn [12, 13]; vật liệu xây dựng như đá
xây dựng (có trữ lượng 165.106 m3),
đá ốp lát (7,14.106 m3), cát thủy tinh
(41.106 tấn), sét gạch ngói (3.106 m3)
và phụ gia sản xuất xi măng (52,5.106 tấn)
[21].
c. Các
tiêu chí về khả năng ứng phó:
- Khả
năng chống chịu / phục hồi của hệ thống
tự nhiên: gồm hệ
sinh thái RNM, vùng cửa sông, mũi nhô, bãi cát/bùn gian triều,
vùng ngập nước dưới 6 m nước khi triều
kiệt. Ví dụ điển hình là RNM với các giá trị
và chức năng về kinh tế và môi trường (lá phổi
xanh điều hòa khí hậu vùng, là nơi lắng đọng
trầm tích và đồng hóa chất ô nhiễm do các hoạt
động nhân sinh, hạn chế tai biến như xói lở,
bồi tụ biến động luồng lạch, bão, ô
nhiễm môi trường). Do đó, RNM được
đánh giá có khả năng ứng phó cao nhất, với khả
năng chống chịu, giảm thiểu và phục hồi
cao trước tác động của tai biến (hay là giảm
mức độ tổn thương). Tiếp đến
là các thành tạo địa chất rắn chắc ở mũi
Nghinh Phong (đá granit phức hệ Đèo Cả và thành tạo
phun trào hệ tầng Nha Trang có khả năng chống chịu
tốt, chịu tải cao và thấm dầu kém, đồng
thời hạn chế được tác động của
một số tai biến như xói lở, tràn dầu, dâng
cao mực nước biển, ô nhiễm môi trường,
bão, lũ lụt. Trong khi đó, các thành tạo bở rời
(vùng cửa sông, bãi cát/bùn gian triều) với khả
năng gắn kết kém, tính thấm dầu cao, dễ bị
phá huỷ bởi sóng, dòng chảy và có khả năng tích tụ
độc tố, nhạy cảm với các tai biến xói
lở, sự cố tràn dầu, ô nhiễm môi trường.
Vì thế, các thành tạo này có khả năng chống chịu
kém.
- Tiềm
lực ứng phó của hệ thống xã hội: gồm các tiêu chí đánh giá chính là trình
độ văn hoá, giáo dục, công tác quản lý, tổ chức,
bảo vệ phòng tránh tai biến (số trường học,
số giáo viên, hệ thống pháp luật, thu gom rác thải)
và cơ sở hạ tầng (hệ thống giao thông, trạm
truyền thông), trong đó, công tác giáo dục, đào tạo
ở vùng nghiên cứu được phát triển khá mạnh
với cơ sở trường học đầy đủ
tiện nghi, lực lượng giáo viên hùng hậu với
9.800 giáo viên (trung bình 122,5 giáo viên/1 vạn dân). Chất
lượng giáo dục đạt kết quả cao: hàng
năm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học
đạt trên 99%, tốt nghiệp THCS là 90%, tốt nghiệp
THPT là 95%. Đây được coi là cơ sở quan trọng
để đánh giá khả năng nhận thức và ý thức
của cộng đồng trong việc bảo vệ các
tài nguyên nói chung và TNĐC nói riêng. Tuy nhiên, số người
trong độ tuổi lao động không có việc làm còn
cao (chiếm 2,43%), tỷ lệ tăng dân số cao (13,66%)
[1]. Thêm vào đó là sự phân bố dân cư không đồng
đều (thành thị 387.267 người, nông thôn 497.578
người) cũng là yếu tố làm giảm khả
năng ứng phó.
Bảng 1. Các tiêu chí đánh giá mức độ
tổn thương tài nguyên địa chất vịnh Gành
Rái
Các yếu tố |
Các tiêu chí lựa chọn |
Chú thích |
Các yếu tố
gây tổn thương |
Các tai biến: - Xói lở - Bồi tụ gây biến
động luồng lạch - Dâng cao mực nước
biển - Bão và lũ lụt - Sự cố tràn dầu - Ô nhiễm môi trường - Động đất |
Các thành tạo địa chất
đóng vai trò là yếu tố cường hóa hoặc hạn
chế tai biến (ứng phó tốt nhờ khả
năng chống chịu): - Các thành tạo cát, bùn có khả
năng chống chịu tai biến kém, nhạy cảm với
xói lở, ô nhiễm môi trường, tràn dầu, dâng cao mực
nước biển.... - Các thành tạo rắn chắc có
khả năng hạn chế các tai biến kể trên. |
Các yếu tố cường hóa tai biến: - Các yếu tố tự
nhiên: địa hình, địa mạo, các thành tạo
địa chất (đá gốc, cát, bùn). - Các hoạt động
nhân sinh: chặt phá RNM, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch,
giao thông vận tải biển, NTTS, khai thác thủy sản,
khai thác khoáng sản, làm muối. |
||
Các đối tượng bị tổn thương |
Tài nguyên vị thế: - Mũi nhô - Cảng biển |
Một số
đối tượng bị tổn thương như:
mũi nhô, đá gốc, bãi cát/bùn gian triều, RNM, vùng cửa
sông có khả năng chống chịu/phục hồi
trước tai biến (xem phần
khả năng ứng phó). |
Cảnh quan đẹp về địa chất: - Bãi tắm - Cảnh quan ven biển |
||
Tài nguyên đất
ngập nước: - Vùng biển có độ
sâu 6m nước khi triều kiệt - Cửa sông - RNM - Bãi cát/bùn gian triều - Vùng NTTS - Vùng làm muối - Sông, suối - Ruộng lúa |
||
Tài nguyên khoáng sản |
||
Khả năng ứng
phó |
Khả năng chống chịu/phục hồi
của hệ thống tự nhiên: - Hệ sinh thái RNM - Vùng cửa sông và vùng ngập
nước 6m - Mũi nhô và các thành tạo
đá gốc - Bãi bùn/cát gian triều |
|
Tiềm lực ứng phó xã hội: - Trình độ văn hóa - Công tác quản lý, bảo
vệ tài nguyên - môi trường và phòng tránh thiên tai - Cơ sở hạ tầng
(hệ thống giao thông, trạm truyền thông) |
2. Phân vùng mức
độ tổn thương tài nguyên địa chất vịnh
Gành Rái
Mức độ tổn
thương TNĐC được đánh giá dựa trên
cơ sở 3 nhóm yếu tố với các tiêu chí lựa chọn
(Bảng 1). Kết quả đánh giá mức độ tổn
thương là sự chồng chập của các chỉ số
mức độ nguy hiểm do các yếu tố gây tổn
thương, mật độ đối tượng bị
tổn thương và khả năng ứng phó trên diện
tích các ô vuông của bản đồ địa hình tỷ
lệ 1/100.000. Bằng phương pháp đại số bản
đồ, chỉ số tổn thương được
xác định trên từng ô vuông. Dựa vào chỉ số này,
khu vực nghiên cứu được phân thành 4 vùng có mức
độ tổn thương khác nhau từ thấp đến
cao (Hình 7).
km
Hình 7. Sơ
đồ thể hiện mức độ tổn
thương tài nguyên địa chất vịnh Gành Rái
Vùng I:
Vùng có mức độ tổn thương thấp, chiếm
18,72% diện tích, phân bố ở địa hình cao thuộc
các xã phía tây thị xã Bà Rịa (Hòa Long, Phước Long) và
phía bắc huyện Tân Thành (Châu Pha, Tóc Tiên, Hắc Dịch).
Đây là vùng cách xa bờ biển, có mức độ nguy
hiểm thấp (chỉ chịu tác động của tai
biến động đất, bão với cường
độ nhỏ và gần như không bị sức ép của
các hoạt động phát triển kinh tế); mật
độ TNĐC kém phong phú (khoáng sản chủ yếu là
làm vật liệu xây dựng và ĐNN là các vùng trồng lúa
với diện tích nhỏ) và khả năng ứng phó ở
mức trung bình (không có hệ thống RNM, khả năng chống
chịu tai biến trung bình).
Vùng II:
Vùng có mức độ tổn thương trung bình, chiếm
15,30% diện tích, phân bố chủ yếu ở huyện
Tân Thành (xã Phước Hòa và Hội Bài), thị xã Bà Rịa
(Long Hương, Phước Trung, Long Toàn, Phước
Hưng) và diện tích nhỏ xa bờ thuộc xã Long
Sơn, phường 4, 7, 9 (Tp Vũng Tàu). Vùng này có mức
độ nguy hiểm trung bình - cao (với các tai biến
dâng cao mực nước biển, bão lũ lụt, ô nhiễm
môi trường và các hoạt động nhân sinh cường
hóa tai biến như giao thông, các nhà máy và khu công nghiệp
thuộc lưu vực sông Thị Vải qua địa phận
huyện Tân Thành; hoạt động chặt phá RNM để
NTTS và làm ruộng muối ở Long Sơn và Long
Hương); mật độ đối tượng bị
tổn thương tương đối cao (hệ sinh
thái RNM phát triển nhất khu vực nghiên cứu, cùng với
hệ thống cảng biển thuộc sông Thị Vải,
các vùng NTTS, làm muối và hệ thống sông suối dày
đặc). Trong khi đó, khả năng ứng phó
tương đối cao đến cao (diện tích RNM lớn
có khả năng phục hồi/chống chịu tốt
như ở các phường của Tp Vũng Tàu).
Vùng III:
Vùng có mức độ tổn thương cao, chiếm diện
tích lớn nhất khu vực (43,53%), bao gồm các phường
2, 5, 6, 11 và thôn 9 (xã Long Sơn), vùng cửa sông Dinh, thị
trấn Phú Mỹ (huyện Tân Thành) và vùng biển 0-6m nước.
Vùng được kết hợp giữa mức độ
nguy hiểm cao (điển hình là chịu ảnh hưởng
mạnh của sự cố tràn dầu, ô nhiễm môi
trường, dâng cao mực nước biển, bồi tụ
gây biến động luồng lạch); mật độ
các đối tượng tổn thương cao với sự
tập trung của tài nguyên vị thế (mũi nhô, cảng
biển), KQĐC (bãi biển đẹp), ĐNN (hệ thống
RNM, ruộng muối, đầm NTTS, các bãi cát/bùn gian triều
và vùng biển có độ sâu dưới 6m khi triều kiệt)
và khả năng ứng phó tương đối cao (khả
năng phục hồi của hệ thống RNM rất tốt,
khả năng chống chịu của các đối tượng
tổn thương khác được bảo vệ qua hệ
thống đê kè, trình độ dân trí khá cao, chính sách và công
tác bảo vệ bờ biển tốt).
Vùng IV: Vùng có mức độ tổn thương rất cao,
chiếm 24,45% diện tích, gồm dải ven biển xã Long
Sơn, phường 1, 10 (Tp Vũng Tàu) và các vùng cửa sông
(Cái Mép, rạch Ông Bền, Mũi Giui và cửa Lấp). Vùng
có mức độ nguy hiểm cao (chịu tác động
của các tai biến sự cố tràn dầu, bồi tụ
gây biến động luồng lạch với cường
độ mạnh, tần xuất lớn và các hoạt
động nhân sinh cường hóa tai biến ở mức
độ cao (sự tập trung dân cư đông đúc,
khai thác và NTTS, giao thông thủy...). Mật độ đối
tượng bị tổn thương cao với các kiểu
TNĐC có giá trị lớn, mật độ cao: hệ
sinh thái RNM (xã Phước Hòa nằm giữa cửa sông Cái
Mép và rạch Ông Bền, diện tích ven biển của xã
Long Sơn kéo dài tới vùng cửa sông Mũi Giui); tài nguyên
vị thế (cụm cảng thuộc Tp Vũng Tàu, cửa
sông Lấp); KQĐC (bãi biển đẹp ở các phường
1, 10 Tp Vũng Tàu tạo điều kiện phát triển du
lịch), tiếp đến là các kiểu ĐNN khác (vùng
NTTS, vùng cửa sông, ruộng muối), trong đó, khả
năng ứng phó ở mức trung bình - tương đối
cao (chủ yếu là nhờ khả năng chống chịu
và một phần diện tích nhỏ nhờ khả năng
phục hồi của hệ sinh thái RNM).
Kết quả
đánh giá tổn thương TNĐC vịnh Gành Rái cho thấy
vùng có mức độ tổn thương cao thường
là vùng được kết hợp giữa vùng mức
độ nguy hiểm do các yếu tố gây tổn
thương cao đến rất cao (ảnh hưởng mạnh
các tai biến sự cố tràn dầu, xói lở, bồi tụ
gây biến động luồng lạch, ô nhiễm môi
trường), mật độ đối tượng bị
tổn thương cao (các loại tài nguyên có giá trị và
chức năng lớn như RNM, tài nguyên vị thế,
KQĐC...) và khả năng ứng phó ở mức trung bình
- tương đối cao (nhờ khả năng phục
hồi/chống chịu của RNM, cơ sở hạ tầng
cũng như công tác bảo vệ TNĐC và phòng tránh tai biến
tương đối tốt). Những vùng có mức độ
tổn thương thấp là nơi ít bị đe doạ
bởi yếu tố gây tổn thương, mật độ
TNĐC thưa thớt (nghèo hệ sinh thái nhạy cảm)
và khả năng ứng phó trung bình. Trong những năm tới,
mức độ tổn thương TNĐC ở khu vực
nghiên cứu nói riêng, và vũng vịnh Việt Nam nói chung, dự
báo tăng cao do sự biến đổi khí hậu toàn cầu
(điển hình là ảnh hưởng trực tiếp của
sự dâng cao mực nước biển) và tăng sức
ép từ các hoạt động khai thác, sử dụng
TNĐC không hợp lý (như khối lượng chất
thải công nghiệp trên sông Thị Vải đổ qua vịnh
Gành Rái).
IV.
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP SỬ DỤNG BỀN VỮNG
TÀI NGUYÊN ĐỊA CHẤT VỊNH GÀNH RÁI
Mục tiêu sử dụng
bền vững TNĐC vịnh Gành Rái là vừa đáp ứng
nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên nhằm thúc
đẩy phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân hướng tới
công bằng, bình đẳng trong xã hội, vừa bảo vệ
môi trường, hạn chế tai biến và bảo vệ,
bảo tồn TNĐC. Để đáp ứng mục tiêu
này, đồng thời phải tăng khả năng ứng
phó của TNĐC và giảm mức độ thiệt hại
của TNĐC do tai biến hay là làm giảm mức độ
tổn thương TNĐC. Đó cũng chính là hướng
tới sự phát triển bền vững - sự phát triển
đảm bảo bền vững về kinh tế, bền
vững về xã hội và bền vững về môi trường
[5]. Vì vậy, một số giải pháp sử dụng hợp
lý TNĐC vịnh Gành Rái được đề xuất
gồm: quản lý, tuyên truyền - giáo dục, quy hoạch
sử dụng TNĐC và giảm thiểu thiệt hại
do tai biến. Cơ sở của các giải pháp này
được xây dựng dựa vào kết quả đánh
giá tổn thương TNĐC.
1. Quản lý
- Tăng cường hiệu lực của
pháp luật, chính sách: các hoạt
động khai thác và sử dụng TNĐC phải tuân thủ
hệ thống luật pháp, chính sách của Việt Nam
như, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo
vệ nguồn lợi thủy sản, Luật khoáng sản…,
đồng thời phải thực hiện các luật và
công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, như
Công ước Ramsar, Công ước về đa dạng
sinh học… Cần ban hành các chính sách khuyến khích mở rộng
các mô hình kinh tế sinh thái (du lịch sinh thái, NTTS sinh thái,
khai khoáng bền vững…); lập quỹ bảo hiểm
tai biến nhằm chia sẻ thiệt hại (điển
hình là xói lở, bão, tràn dầu). Đặc biệt phải
có các chế tài và hình thức xử phạt nghiêm khắc
đối với các cơ sở khai thác, sử dụng
lãng phí gây tổn thất TNĐC, suy thoái cảnh quan, môi
trường. Song song phải áp dụng luật bồi hoàn
đối với các nguồn gây ô nhiễm (khu công nghiệp,
nhà máy, phương tiện giao thông vận tải…). Thêm vào
đó cần tăng cường, củng cố các phong tục,
luật lệ truyền thống, hương ước ở
địa phương phù hợp với bảo vệ môi
trường, phòng tránh, giảm thiểu tai biến và sử
dụng hợp lý TNĐC.
- Quản lý tổng hợp: được thực hiện dựa
trên cơ sở kết quả đánh giá tổn
thương TNĐC là công tác quản lý được thực
hiện theo đặc điểm ba nhóm yếu tố: các
yếu tố gây tổn thương (tập trung quản
lý tai biến); đặc điểm TNĐC (quản lý
theo ngành NTTS, du lịch, giao thông…); khả năng ứng phó
(quản lý dựa vào cộng đồng). Đối với
các vùng có mức độ tổn thương cao, công tác quản
lý cần chú trọng công tác phòng tránh, giảm nhẹ tối
đa thiệt hại do tai biến và bảo vệ tài
nguyên. Các hoạt động khai thác, sử dụng TNĐC
cần được khuyến khích chuyển sang mô hình
sinh thái. Đồng thời chú trọng công tác tuyên truyền
giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng về
phòng chống tai biến, bảo vệ tài nguyên, môi trường;
nâng cao trình độ cho các nhà quản lý, nhận thức của
cộng đồng về giá trị và chức năng
TNĐC. Cùng với đó là thúc đẩy hợp tác giữa
các nhà quản lý với cộng đồng dân cư trong việc
triển khai các mô hình kinh tế sinh thái; tăng cường
thể chế, chính sách cho quản lý tổng hợp.
2. Tuyên truyền,
giáo dục
Công tác tuyên truyền,
giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của cộng
đồng về giá trị và chức năng của
TNĐC; kỹ thuật và công nghệ khai thác bền vững
(thủy sản, khoáng sản); các nhân tố đe dọa tới
TNĐC (điển hình là các tai biến xói lở, sự cố
tràn dầu, bão, ô nhiễm môi trường). Đây là giải
pháp rất cần thiết nhằm tăng tiềm lực ứng
phó xã hội trước các yếu tố gây tổn
thương. Để giải pháp này đạt hiệu
quả cao cần tập trung vào các đối tượng
là các nhà quản lý, người dân địa phương
và học sinh. Trong đó, một số nguyên tắc cần
lưu ý là: tôn trọng quyền hưởng thụ của
các cộng đồng đối với lợi ích mà
TNĐC mang lại; đề cao trách nhiệm, thu hút sự
tham gia tích cực của cộng đồng, các bên liên quan
và công tác giáo dục, tuyên truyền cần được
thực hiện liên tục. Cùng với đó cần có các
công tác hướng dẫn và quy định cho các du khách
đến thăm quan du lịch có ý thức bảo vệ
môi trường và TNĐC như giấy báo, truyền thanh,
truyền hình, mạng Internet, tờ rơi…
3. Giảm thiểu
thiệt hại do tai biến
Ở vùng nghiên cứu
hiện mới có hệ thống kè chống xói lở ở
phường 1 và phường 5 (Tp Vũng Tàu); kè đá do
tư nhân đầu tư để bảo vệ một
số khu du lịch ở các bãi tắm Thùy Vân, bãi Sau. Trong
khi đó, vịnh Gành Rái là vùng chịu ảnh hưởng
nghiêm trọng của sự cố tràn dầu, là nơi tiếp
nhận lượng nước thải đô thị và nhiều
khu công nghiệp lớn. Nhằm giảm thiểu thiệt
hại do tai biến, ngoài việc áp dụng các giải pháp
phi công trình (quản lý, tuyên truyền và giáo dục) cần
thực hiện một số giải pháp công trình sau:
- Củng cố và
xây dựng hệ thống đê, kè chống xói lở ở
các phường 1, 5, 8 và 11 (Tp Vũng Tàu);
- Xây dựng các trạm
quan trắc, cảnh báo và dự báo sự cố tràn dầu,
ô nhiễm môi trường;
- Khôi phục hệ
sinh thái RNM ven biển xã Long Sơn, phường 11 (Tp Vũng
Tàu), phường Long Hương (thị xã Bà Rịa) vừa
tạo bức tường chắn sóng, phòng chống xói lở
đồng thời bảo vệ môi trường, duy trì
đa dạng sinh học.
Bảng 2. Một
số giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên
địa chất vịnh Gành Rái
Phân vùng mức độ tổn thương TNĐC |
Đề xuất giải pháp sử dụng hợp
lý TNĐC |
Vùng có MĐTT
cao: các
vùng cửa sông, dải ven biển thuộc phường
1, 10 và xã Long Sơn (Tp Vũng Tàu) |
- Ưu tiên đầu
tư, củng cố các công trình chống xói lở, bồi
tụ gây biến động luồng lạch; bảo vệ,
bảo tồn diện tích RNM. - Tăng cường
công tác ứng phó sự cố tràn dầu. - Áp dụng các mô
hình du lịch và NTTS sinh thái, khai thác thủy sản bền
vững và hệ thống cảng biển có sự quản
lý. |
Vùng có MĐTT
tương đối cao: Tp Vũng Tàu (phường 2, 5, 6, 11,
12); vùng cửa sông Dinh và phần lớn vùng biển 0-6m
nước |
- Ưu tiên đầu
tư các công trình phòng ngừa và giảm thiểu thiệt
hại do xói lở và sự cố tràn dầu. - Triển khai và
phát triển các mô hình kinh tế sinh thái: du lịch sinh thái
và NTTS sinh thái, khai thác thủy sản và khoáng sản bền
vững. |
Vùng có MĐTT
trung bình:
ven sông Thị Vải, các phường ven biển của
thị xã Bà Rịa và phường 4, 7, 9 ở Tp Vũng
Tàu |
- Ưu tiên phát
triển mô hình NTTS và nông nghiệp sinh thái, phát triển hệ
thống cảng biển, luồng lạch có sự quản
lý. - Bảo vệ,
bảo tồn diện tích RNM. - Thực hiện
các giải pháp giảm thiểu thiệt hại do tai biến
ô nhiễm môi trường, sự cố tràn dầu. |
Vùng có MĐTT
thấp:
vùng địa hình cao, xa cửa sông, cảng biển thuộc
huyện Tân Thành, thị xã Bà Rịa |
- Ưu tiên phát
triển các mô hình nông nghiệp sinh thái, khai thác khoáng sản
bền vững. - Phát động
các hoạt động tuyên truyền giáo dục nhằm
nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò,
chức năng TNĐC. |
4. Quy hoạch
sử dụng tài nguyên địa chất
Dựa
trên kết quả đánh giá mức độ tổn
thương TNĐC, các vùng có mức độ tổn
thương khác nhau tương ứng với sự phân bố
và các hình thức khai thác, sử dụng TNĐC khác nhau, các
hoạt động được đề xuất nhằm
đáp ứng nội dung của quy hoạch theo không gian và
thực hiện theo các hoạt động ưu tiên nhằm
tăng khả năng ứng phó, trong đó, cần ưu
tiên áp dụng các mô hình sử dụng bền vững
TNĐC (du lịch sinh thái/bền vững, NTTS sinh thái, nông -
lâm nghiệp sinh thái…) nhằm hạn chế các tác động
tiêu cực đến tài nguyên - môi trường và giảm
mâu thuẫn lợi ích trong khai thác và sử dụng TNĐC.
Đồng thời áp dụng các biện pháp giảm thiểu
thiệt hại do tai biến để hạn chế sự
tổn thất tài nguyên (Bảng 2). Vì vậy, để quy
hoạch thực hiện và đạt hiệu quả cao ở
từng địa phương phải có sự thỏa
thuận, sự tham gia xây dựng và thực hiện của
các bên liên quan (các nhóm sử dụng TNĐC) và công tác quy hoạch
phải tuân thủ theo các luật, nghị định của
nhà nước ban hành.
Cụ
thể đối với vùng có mức độ tổn
thương cao, nhằm tăng cường khả năng
ứng phó, công tác quy hoạch cần hạn chế tác
động tiêu cực của các hoạt động khai
thác và sử dụng TNĐC (giao thông vận tải - cảng
biển, du lịch, khai thác và NTTS) và các tai biến (xói lở,
sự cố tràn dầu, bồi tụ gây biến động
luồng lạch). Do đó, các hoạt động
được đề xuất gồm: du lịch sinh
thái (phường 1, 10 - Tp Vũng Tàu, NTTS sinh thái (xã Long
Sơn - Tp Vũng Tàu), khai thác thủy sản bền vững
và bảo vệ, bảo tồn diện tích RNM (các khu vực
cửa sông), kết hợp với các giải pháp giảm thiệt
thiệt hại do tai biến.
V. KẾT
LUẬN
Tiêu
chí đánh giá tổn thương TNĐC được xây
dựng trên 3 nhóm yếu tố: các yếu tố gây tổn
thương (các tiêu chí về tai biến và yếu tố
cường hóa tai biến) các đối tượng bị
tổn thương (các kiểu TNĐC) và khả năng ứng
phó của hệ thống tự nhiên - xã hội (khả
năng chống chịu/phục hồi của tự nhiên
và tiềm lực ứng phó xã hội).
Kết
quả đánh giá mức độ tổn thương
TNĐC vịnh Gành Rái đã được phân thành 4 vùng có
mức độ từ thấp đến cao. Vùng có mức
độ tổn thương cao thường là vùng có mức
độ nguy hiểm cao đến rất cao (chịu ảnh
hưởng mạnh của các tai biến xói lở, bồi
tụ gây biến động luồng lạch, dâng cao mực
nước biển; sự cố tràn dầu, ô nhiễm môi
trường); mật độ đối tượng bị
tổn thương cao (giàu có về RNM, tài nguyên vị thế,
KQĐC...) và khả năng ứng phó ở mức trung bình
- tương đối cao (với khả năng phục
hồi/chống chịu của RNM, cơ sở hạ tầng
cũng như công tác bảo vệ TNĐC và phòng tránh tai biến
tương đối tốt). Ngược lại, vùng có
mức độ tổn thương thấp là nơi ít bị
đe doạ bởi yếu tố gây tổn thương,
mật độ TNĐC thưa thớt (nghèo hệ sinh
thái nhạy cảm) và khả năng ứng phó trung bình.
Dựa
vào kết quả đánh giá mức độ tổn
thương đã đề xuất các giải pháp sử
dụng bền vững TNĐC như quản lý (tăng
cường hiệu lực của pháp luật, chính sách, quản
lý tai biến, quản lý dựa vào cộng đồng…);
tuyên truyền giáo dục (tập huấn, truyền thanh, tờ
rơi…); quy hoạch (NTTS, du lịch, nông nghiệp sinh thái,
phát triển cảng có sự quản lý…) và giảm thiểu
thiệt hại do tai biến (củng cố và xây dựng
hệ thống kè chống xói lở, trạm quan trắc và
dự báo tràn dầu…).
VĂN LIỆU
1. Cục
Thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, 2003. Niên giám thống kê tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu năm 2003. Bà Rịa
- Vũng Tàu.
2. Cutter
SL., 1996. Vulnerability to
environmental hazards. Progress in Human Geography, 20 : 529-539.
3. Cutter SL.
et al., 2000. Revealing the vulnerability of people and places: A
case study of
4. Lê Minh
Đức, 2003. Định
hướng và giải pháp thực hiện chương
trình nghị sự 21 về phát triển bền vững của
Việt
5. Gornitz V.
M., Daniels R. C., White T. W., Birdwell K. R., 1994. The development of a coastal risk assessment
database: Vulnerability to sea-level rise in the
6. Lê Thị
Thu Hiền, Mai Trọng Nhuận, Trần Văn Ý, 2006. Đánh giá tổn thương phục
vụ cho quy hoạch và quản lý môi trường (lấy
ví dụ ở thành phố Hải Phòng và phụ cận). TC Các Khoa học về TĐ, 28/1
: 1-10. Hà Nội.
7. Liên
đoàn Địa chất Biển, 2005. Bộ phiếu điều tra kinh tế
- xã hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu năm 2005. Lưu trữ Địa chất,
Hà Nội.
8. NOAA,
1999. Community vulnerability
assessment tool. CD-
9. Mai Trọng
Nhuận, Đặng Văn Luyến, Nguyễn Thị Thúy
Hằng, Trần Thanh Hải, Phạm Hùng Thanh, 2002. Đánh giá mức độ dễ bị
tổn thương của hệ thống tự nhiên - xã hội
đới ven biển (lấy ví dụ từ đới
ven biển Khánh Hòa). TC Khoa học
Đại học Quốc gia Hà Nội, 18/4 : 25-33. Hà Nội.
10. Mai Trọng Nhuận (Chủ biên), 2004. Nghiên cứu,
đánh giá mức độ bị tổn thương của
đới duyên hải Nam Trung Bộ làm cơ sở khoa học
để giảm nhẹ tai biến, quy hoạch sử dụng
đất bền vững.
Lưu trữ Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.
11. Mai Trọng
Nhuận và nnk, 2005. Đánh giá mức độ nguy hiểm
do tai biến đới ven biển Việt
12. Mai Trọng
Nhuận (Chủ biên), 2005. Thành lập bản đồ
hiện trạng địa chất tai biến và
dự báo tai biến (0-30 m nước) vùng
biển Hồ Tràm - Vũng Tàu. Lưu trữ Liên đoàn Địa chất Biển.
Hà Nội.
13. Mai Trọng
Nhuận (Chủ biên), 2005. Thành lập bản đồ hiện
trạng địa chất môi trường vùng
biển Hồ Tràm - Vũng Tàu từ (0-30 m
nước). Lưu trữ
Liên đoàn Địa chất Biển. Hà Nội.
14. Mai Trọng
Nhuận, Nguyễn Thị Hồng Huế, Trần
Đăng Quy, Nguyễn Tài Tuệ, 2005. Đánh giá mức độ dễ bị
tổn thương đới ven biển Phan Thiết - Hồ
Tràm, Việt
15. Mai Trọng
Nhuận (Chủ biên), 2007. Nghiên cứu đề xuất mô hình,
giải pháp sử dụng bền vững tài nguyên địa
chất đới duyên hải (lấy ví dụ vùng Phan Thiết
- Vũng Tàu). Lưu trữ Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hà Nội.
16. Mai Trọng
Nhuận (Chủ biên), 2007. Báo cáo “Xây dựng và trình ban hành hệ
thống phân loại đất ngập nước Việt
17. Mai Trong
Nhuan et al., 2008. Assessment of Vietnamese coastal wetland
vulnerability for sustainable use (case study in Xuan Thuy Ramsar site,
18. SOPAC,
2004. Environmental Vulnerability
Index. http://www.sopac.org.
19. Trần
Đức Thạnh (Chủ
biên), 2005. Đánh giá hiện
trạng, dự báo biến động và đề xuất
giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên một số
vũng vịnh chủ yếu ven biển Việt
20. USEPA,
2001. The U.S.EPA’s Regional
Vulnerablity Program: A research strategy for 2001- 2006.
21. Website: www.baria-vungtau.gov.vn.com