ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ TỔN THƯƠNG TÀI NGUYÊN ĐỊA CHẤT, ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG BỀN VỮNG VỊNH GÀNH RÁI,  TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

NGUYỄN THỊ HỒNG HUẾ1, MAI TRỌNG NHUẬN2, NGUYỄN TÀI TUỆ1,3,
NGUYỄN THỊ MINH NGỌC1, ĐỖ THÙY LINH1, PHẠM BẢO NGỌC1, LƯU VIỆT DŨNG1

 1 Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
2 Đại học Quốc gia Hà Nội; 3 Đại học Ehime, Nhật Bản

Tóm tắt: Vịnh Gành Rái là một trong các vũng vịnh đóng vai trò quan trọng ở miền Đông Nam Bộ nói riêng, và Việt Nam nói chung. Vịnh có tài nguyên phong phú và đa dạng, đặc biệt là tài nguyên địa chất. Đó là những điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế như giao thông biển, nuôi trồng và khai thác thủy sản, du lịch... Tuy nhiên, vùng này đang chịu tác động mạnh của các tai biến cùng với các hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên địa chất thiếu hợp lý làm suy thoái môi trường, suy giảm đa dạng sinh học và tăng mức độ tổn thương. Do vậy, đánh giá mức độ tổn thương tài nguyên địa chất nhằm sử dụng bền vững vũng vịnh là rất cần thiết.

     Dựa vào ba nhóm yếu tố gồm các yếu tố gây tổn thương (các tai biến và yếu tố cường hóa tai biến), các đối tượng bị tổn thương (tài nguyên vị thế, kỳ quan địa chất, đất ngập nước và tài nguyên khoáng sản) và khả năng ứng phó của hệ thống tự nhiên -  xã hội, đã phân vùng mức độ tổn thương tài nguyên địa chất vịnh Gành Rái thành 4 mức: thấp, trung bình, tương đối cao và cao. Trên cơ sở đó, một số giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên địa chất được đề xuất: quản lý, tuyên truyền và giáo dục, giảm thiểu thiệt hại do tai biến, quy hoạch sử dụng tài nguyên địa chất.


I. MỞ ĐẦU

Với khoảng 3.260 km đường bờ biển, Việt Nam có 48 vũng, vịnh biển lớn nhỏ, chiếm diện tích 3997 km2 [19]. Các vũng, vịnh có vai trò vô cùng quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội cũng như an ninh quốc phòng của đất nước.

Vịnh Gành Rái nằm ở khu vực biển Đông Nam Bộ, giữa hai thành phố lớn là Vũng Tàu và Tp Hồ Chí Minh, tiếp giáp với Khu Dự trữ sinh quyển Cần Giờ (Hình 1). Vịnh phong phú các nguồn tài nguyên nói chung và tài nguyên địa chất (TNĐC) nói riêng, trong đó, TNĐC là sản phẩm của quá trình địa chất mà con người có thể khai thác, sử dụng [15]. Có thể phân biệt được 2 nhóm TNĐC: không tái tạo được (khoáng sản, kỳ quan địa chất (KQĐC), tài nguyên vị thế) và tái tạo được (một bộ phận đất ngập nước). Khu vực vịnh Gành Rái có tài nguyên vị thế với hệ thống cảng phát triển mạnh (cảng Vũng Tàu, cảng Cái Mép); KQĐC với các bãi biển đẹp (bãi Trước, bãi Sau, bãi Dứa…); phong phú về đất ngập nước (ĐNN) với sự giàu có về hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM) ở Tân Thành, thị xã Bà Rịa và sự đa dạng về các loại khoáng sản tạo nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế - xã hội (du lịch, cảng biển, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS), khai thác thủy sản…).

Tuy nhiên, vịnh Gành Rái cũng chịu nhiều tác động của các yếu tố gây tổn thương mà điển hình là các tai biến: xói lở (điển hình là đoạn từ Cửa Lấp đến mũi Nghinh Phong), bồi tụ gây biến động luồng lạch (cửa Lấp, cửa sông Dinh), ô nhiễm môi trường (tại các cảng biển, cửa sông như cảng cửa Lấp, cảng Sao Mai - Bến Đình, cảng Cát Lở, sông Thị Vải…), sự cố tràn dầu... Cùng với đó là các hoạt động khai thác, sử dụng TNĐC thiếu bền vững như nuôi trồng và khai thác thuỷ hải sản (cửa Lấp, cửa sông Dinh, Long Sơn…); giao thông vận tải biển và du lịch (Tp Vũng Tàu); công nghiệp (Phú Mỹ, Mỹ Xuân huyện Tân Thành)... Bên cạnh đó, khả năng ứng phó của hệ thống tự nhiên - xã hội (các hoạt động bảo vệ, quản lý TNĐC, nhận thức của cộng đồng về giá trị và chức năng TNĐC…) chưa cao. Chính các yếu tố này tác động xấu tới TNĐC như suy kiệt về số lượng, suy thoái về chất lượng, suy giảm đa dạng sinh học và chất lượng môi trường dẫn tới tăng mức độ tổn thương TNĐC. Do đó, mức độ tổn thương TNĐC vũng vịnh được đánh giá dựa trên các tiêu chí lựa chọn. Kết quả đánh giá sẽ góp phần định hướng sử dụng bền vững vũng vịnh Việt Nam với các giải pháp quản lý, tuyên truyền giáo dục, quy hoạch sử dụng TNĐC, giảm thiểu thiệt hại do tai biến.

 

Hình 1. Vị trí vùng nghiên cứu

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Hiện nay, các phương pháp và các tiêu chí đánh giá mức độ tổn thương được xây dựng chủ yếu dựa trên 3 nhóm yếu tố: các yếu tố gây tổn thương (các tai biến, sự biến đổi khí hậu toàn cầu…); các đối tượng bị tổn thương (khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, tài nguyên…) và khả năng ứng phó của hệ thống tự nhiên - xã hội (cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí, sức khỏe, giới tính...). Điển hình là mô hình, quy trình và tiêu chí tổn thương xã hội (SoVI) của Cutter, NOAA [2, 3, 8]; tiêu chí tổn thương môi trường của SOPAC [18]; tiêu chí tổn thương đới ven bờ của Sở Địa chất Hoa Kỳ [4]; quy trình đánh giá tổn thương của hệ thống tự nhiên - xã hội ở đới ven biển Việt Nam của Mai Trọng Nhuận và cộng sự [6, 9, 14, 17]. Kế thừa những nghiên cứu đã có và áp dụng cho đặc điểm vũng vịnh Việt Nam, mô hình đánh giá mức độ tổn thương TNĐC vũng vịnh Việt Nam (lấy ví dụ vịnh Gành Rái) được xây dựng (Hình 2).

Hình 2. Mô hình đánh giá mức độ tổn thương tài nguyên địa chất vũng vịnh Việt Nam

III. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ TỔN THƯƠNG TÀI NGUYÊN ĐỊA CHẤT

1. Các tiêu chí đánh giá

Tiêu chí đánh giá tổn thương TNĐC được chia thành 3 nhóm yếu tố: các yếu tố gây tổn thương (gồm các tiêu chí về tai biến, các yếu tố cường hóa tai biến); các đối tượng bị tổn thương (các kiểu TNĐC) và khả năng ứng phó của hệ thống tự nhiên - xã hội (khả năng chống chịu/phục hồi của hệ thống tự nhiên, tiềm lực ứng phó của hệ thống xã hội). Trong các tiêu chí đã lựa chọn, một số tiêu chí vừa là yếu tố gây tổn thương (hoặc đối tượng bị tổn thương) đồng thời đóng vai trò là tiêu chí đánh giá khả năng ứng phó (Bảng 1).

a. Các tiêu chí về yếu tố gây tổn thương:

- Tai biến: gồm xói lở, bồi tụ gây biến động luồng lạch, bão và lũ lụt, dâng cao mực nước biển, sự cố tràn dầu, ô nhiễm môi trường và động đất. Các thông tin lựa chọn chính là cường độ, tần suất và phạm vi ảnh hưởng của từng tai biến, trong đó, xói lở, bồi tụ gây biến động luồng lạch, ô nhiễm môi trường và sự cố tràn dầu xảy ra với cường độ mạnh, tần suất lớn trên phạm vi rộng. Tiếp đến là bão và lũ lụt, dâng cao mực nước biển và động đất.

Xói lở xảy ra tương đối mạnh, điển hình là đoạn bờ từ cửa Lấp đến mũi Nghinh Phong (tạo vách cao khoảng 1-1,5 m). So với bản đồ UTM-1965, đường bờ biển đã bị lấn sâu vào đất liền hàng trăm mét, đặc biệt trong nhiều năm gần đây, trung bình biển lấn sâu vào đất liền 12-15 m/năm [7]. Hậu quả là phá hủy kè bao chống xói lở (Hình 3), làm mất giá trị cảnh quan bãi tắm và đe dọa nhà dân, làm suy  thoái và chết nhiều diện tích rừng phòng hộ (kể cả RNM).

Bồi tụ gây biến động luồng lạch xảy ra ở hầu hết các cửa sông, cảng biển của khu vực. Điển hình là vùng cửa Lấp, quá trình bồi lấp đã tạo nên các cồn cát dài 0,5-1 km và doi cát ngầm ở vùng cửa sông [12, 13]. Hoạt động này đang cường hóa quá trình xói lở, làm nông cạn luồng lạch và gây nguy hiểm cho tàu, thuyền. Nhằm duy trì và phát triển hoạt động giao thông biển và bảo vệ tài nguyên vị thế (cảng biển), hàng năm ở các khu vực cửa sông đã phải chi lượng lớn kinh phí để tiến hành nạo vét, khơi thông dòng chảy. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, ước tính đến năm 2020, tổng khối lượng bùn, đất nạo vét tại 18 luồng, cảng, tuyến sông, khu công nghiệp là hơn 27,6 triệu m3 với kinh phí khoảng 128 tỉ đồng.

 

Hình 4.  Sự cố tràn dầu tháng 9/2001.

Mực nước biển được dự báo sẽ dâng cao khoảng 23-117 cm vào năm 2050 và 56-345 cm vào năm 2100 [20]. Theo Nguyễn Ngọc Thụy, ở ven biển Việt Nam, tốc độ dâng cao mực nước biển trung bình 2 mm/năm. Theo cảnh báo của UNDP, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của dâng cao mực nước biển. Khi mực nước biển dâng tăng 1m, ở Việt Nam có khoảng 1/5 dân số sẽ mất nhà cửa, thiệt hại 12,3% diện tích đất trồng và 40.000 km2 diện tích đồng bằng (chủ yếu là ĐNN ven biển). Tổng thiệt hại ước tính khoảng 17 tỉ USD/năm [21]. Như thế ở vùng vịnh Gành Rái, dâng cao mực nước biển sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng cho phần lớn diện tích từ Tp Vũng Tàu đến mũi Gành Rái (các phường 11, 12 và xã Long Sơn của Tp Vũng Tàu); các xã ven biển thuộc huyện Tân Thành và thị xã Bà Rịa; đe dọa trực tiếp tới các kiểu ĐNN, gây thiệt hại nặng nề cho các ngành du lịch, giao thông vận tải, nuôi trồng thuỷ sản…

Sự cố tràn dầu xảy ra thường gây những hậu quả nghiêm trọng cho tài nguyên, môi trường ven biển nói chung, và vũng vịnh nói riêng. Theo Tổng cục Môi trường, tính đến tháng 6/2007, tổng thiệt hại do tràn dầu ở Việt Nam khoảng 76,8 tỷ đồng, trong đó chi phí thu gom gần 1,2 tỷ đồng. Ngành du lịch bị thiệt hại nghiêm trọng nhất (44,9 tỷ đồng), tiếp đến là ngành thủy sản (28,4 tỷ đồng), nông nghiệp (1,6 tỷ đồng). Ở vịnh Gành Rái, sự cố tràn dầu xảy ra với tần suất lớn chủ yếu do sự cố đâm, va, chìm tàu và dò rỉ dầu từ các tàu. Trong giai đoạn 1993 - 1998, khu vực có 30 tàu bị chìm với khoảng 3.200 tấn dầu thải ra môi trường [12]. Điển hình là tàu Formosa One đâm tàu Petrolimex ngày 7/9/2001, làm tràn 750 tấn dầu ra biển, ảnh hưởng nghiêm trọng tới các ngành kinh tế và môi trường đoạn từ mũi Nghinh Phong đến khu Sao Mai - Bến Đình (Hình 4). Gần đây là các vụ rò rỉ dầu trong tháng 2-3/2007, đã gây suy thoái lớn các hệ sinh thái ven biển. Lượng dầu thu gom ở các bãi tắm của Tp Vũng Tàu  lên tới hơn 12 tấn.

Môi trường vịnh Gành Rái có nguy cơ ô nhiễm Mn, Pb và Cd trong môi trường nước và ô nhiễm Hg, nguy cơ ô nhiễm Sb, As trong môi trường trầm tích [10, 12, 13]. Cụ thể là, môi trường nước có nguy cơ ô nhiễm Pb ở phía tây Cù Lao Bến Đình, hàm lượng khoảng 12-14.10-4 mg/l (cao gấp hơn 40 lần hàm lượng trung bình trong nước biển thế giới, tuy chưa vượt quá tiêu chuẩn Việt Nam 5943-1995). Các dị thường Mn, Cd ở các vùng cửa sông Mũi Giui, sông Dinh (0-5 m nước) có hàm lượng 120-210.10‑4 mg/l và 3,5-6,4.10-4 mg/l (cao gấp 6-10,5 lần và 3,5-6,4 lần hàm lượng trung bình trong nước biển thế giới). Trong môi trường trầm tích (0-6 m), các dị thường Hg xác định ở vùng bến Đình, xã Long Sơn và ở các cửa sông Ngã Bảy và Cái Mép, với hàm lượng 0,3 - 0,5.10-4%. Các dị thường Sb phân bố ở một số vùng  như cảng Cái Lở và cửa sông Cái Mép với hàm lượng 4-5.10-4% (cao gấp 2,85-3,57 lần so với tiêu chuẩn ô nhiễm môi trường trong trầm tích của Canada).

- Các yếu tố cường hóa tai biến: Hoạt động công nghiệp (lượng chất thải khổng lồ của nhà máy Vedan đổ trực tiếp ra sông Thị Vải là 105.600 m3/tháng cùng với các khu công nghiệp Mỹ Xuân A, Nhơn Trạch 1…) và hoạt động giao thông vận tải biển (lượng chất thải sinh hoạt và dầu mỡ ở các cảng Cái Mép, Sao Mai - Bến Đình, sông Dinh) gây ô nhiễm môi trường, tràn dầu; phát triển NTTS ồ ạt, khai thác khoáng sản bằng dụng cụ hủy diệt (thuốc nổ, xung điện) và chặt RNM lấy đất NTTS và làm muối (ở xã Long Sơn, phường 11, cửa Lấp…) làm cường hóa các tai biến xói lở, bồi tụ gây biến động luồng lạch, nhiễm mặn, ô nhiễm môi trường. Thêm vào đó là các yếu tố tự nhiên như địa hình, địa mạo, các thành tạo địa chất ven biển (bùn, bùn cát, cát và đá gốc) có tính chất cường hóa hoặc hạn chế tai biến.

b. Các tiêu chí về đối tượng bị tổn thương:

- Tài nguyên vị thế: gồm các mũi nhô (mũi Nghinh Phong, mũi Gành Rái); các khu cảng biển, cảng cá (khu cảng Vũng Tàu - sông Dinh, khu cảng Cái Mép, khu cảng Phú Mỹ…); cửa sông (cửa Lấp, cửa sông Dinh, cửa sông Mũi Giui, sông Cái Mép). Tài nguyên này đang được khai thác khá mạnh mẽ trong phát triển du lịch (khu du lịch mũi Nghinh Phong, núi Lớn, núi Nhỏ), thủy sản và giao thông biển. Bên cạnh đó, các mũi nhô còn tạo dạng vịnh nửa kín có khả năng chắn sóng, gió, là địa điểm thuận lợi cho các loại tàu thuyền neo đậu trong những ngày biển động.

- Cảnh quan đẹp về địa chất: bờ biển thoải, bãi biển với các thành tạo cát trắng tạo điều kiện du lịch lý tưởng hấp dẫn du khách đến tham quan, tắm biển, nghỉ dưỡng ở khu vực. Các khu du lịch phát triển trên loại hình này có thể kể đến như: khu bãi Sau, bãi Trước, bãi Dứa, bãi Dâu, bãi Thùy Vân, khu giải trí Paradise (Hình 5).

Đất ngập nước gồm 9 kiểu: vùng biển có độ sâu 6 m nước khi triều kiệt, vùng nước cửa sông, bãi cát vùng gian triều, bãi cát/bùn vùng gian triều, RNM, vùng NTTS mặn/lợ, vùng làm muối, sông suối, vùng trồng lúa [16]. Vùng biển có độ sâu dưới 6m khi triều kiệt chiếm khoảng 5.138 ha, là ngư trường khai thác thủy hải sản. Vùng cửa sông, với 1.213 ha, là môi trường thuận lợi cho NTTS, giao thông vận tải, khai thác cát, như vùng cửa Lấp, cửa sông Dinh. RNM chiếm 10.819 ha, đóng vai trò quan trọng bảo vệ bờ biển và môi trường ven biển. Tuy nhiên, nhiều diện tích RNM đã và đang được chuyển đổi thành đất NTTS (xã Long Sơn, phường 11, 12 của Tp Vũng Tàu) và xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị dọc đường 51 (Hình 6). Vùng NTTS mặn/lợ có khoảng 1.524 ha, chủ yếu phát triển ở các bãi triều có RNM, gần cửa sông.

 

- Tài nguyên khoáng sản: gồm khoáng sản kim loại như mỏ ilmenit Vũng Tàu với trữ lượng 70.000 tấn [12, 13]; vật liệu xây dựng như đá xây dựng (có trữ lượng 165.106 m3), đá ốp lát (7,14.106 m3), cát thủy tinh (41.106 tấn), sét gạch ngói (3.106 m3) và phụ gia sản xuất xi măng (52,5.106 tấn) [21].

c. Các tiêu chí về khả năng ứng phó:

- Khả năng chống chịu / phục hồi của hệ thống tự nhiên: gồm hệ sinh thái RNM, vùng cửa sông, mũi nhô, bãi cát/bùn gian triều, vùng ngập nước dưới 6 m nước khi triều kiệt. Ví dụ điển hình là RNM với các giá trị và chức năng về kinh tế và môi trường (lá phổi xanh điều hòa khí hậu vùng, là nơi lắng đọng trầm tích và đồng hóa chất ô nhiễm do các hoạt động nhân sinh, hạn chế tai biến như xói lở, bồi tụ biến động luồng lạch, bão, ô nhiễm môi trường). Do đó, RNM được đánh giá có khả năng ứng phó cao nhất, với khả năng chống chịu, giảm thiểu và phục hồi cao trước tác động của tai biến (hay là giảm mức độ tổn thương). Tiếp đến là các thành tạo địa chất rắn chắc ở mũi Nghinh Phong (đá granit phức hệ Đèo Cả và thành tạo phun trào hệ tầng Nha Trang có khả năng chống chịu tốt, chịu tải cao và thấm dầu kém, đồng thời hạn chế được tác động của một số tai biến như xói lở, tràn dầu, dâng cao mực nước biển, ô nhiễm môi trường, bão, lũ lụt. Trong khi đó, các thành tạo bở rời (vùng cửa sông, bãi cát/bùn gian triều) với khả năng gắn kết kém, tính thấm dầu cao, dễ bị phá huỷ bởi sóng, dòng chảy và có khả năng tích tụ độc tố, nhạy cảm với các tai biến xói lở, sự cố tràn dầu, ô nhiễm môi trường. Vì thế, các thành tạo này có khả năng chống chịu kém.

- Tiềm lực ứng phó của hệ thống xã hội: gồm các tiêu chí đánh giá chính là trình độ văn hoá, giáo dục, công tác quản lý, tổ chức, bảo vệ phòng tránh tai biến (số trường học, số giáo viên, hệ thống pháp luật, thu gom rác thải) và cơ sở hạ tầng (hệ thống giao thông, trạm truyền thông), trong đó, công tác giáo dục, đào tạo ở vùng nghiên cứu được phát triển khá mạnh với cơ sở trường học đầy đủ tiện nghi, lực lượng giáo viên hùng hậu với 9.800 giáo viên (trung bình 122,5 giáo viên/1 vạn dân). Chất lượng giáo dục đạt kết quả cao: hàng năm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học đạt trên 99%, tốt nghiệp THCS là 90%, tốt nghiệp THPT là 95%. Đây được coi là cơ sở quan trọng để đánh giá khả năng nhận thức và ý thức của cộng đồng trong việc bảo vệ các tài nguyên nói chung và TNĐC nói riêng. Tuy nhiên, số người trong độ tuổi lao động không có việc làm còn cao (chiếm 2,43%), tỷ lệ tăng dân số cao (13,66%) [1]. Thêm vào đó là sự phân bố dân cư không đồng đều (thành thị 387.267 người, nông thôn 497.578 người) cũng là yếu tố làm giảm khả năng ứng phó.

Bảng 1.  Các tiêu chí đánh giá mức độ tổn thương tài nguyên địa chất vịnh Gành Rái

Các yếu tố

Các tiêu chí lựa chọn

Chú thích

 

 

Các yếu tố gây tổn thương

Các tai biến:

-   Xói lở

-   Bồi tụ gây biến động luồng lạch

-   Dâng cao mực nước biển

-   Bão và lũ lụt

-   Sự cố tràn dầu

-   Ô nhiễm môi trường

-   Động đất

Các thành tạo địa chất đóng vai trò là yếu tố cường hóa hoặc hạn chế tai biến (ứng phó tốt nhờ khả năng chống chịu):

-   Các thành tạo cát, bùn có khả năng chống chịu tai biến kém, nhạy cảm với xói lở, ô nhiễm môi trường, tràn dầu, dâng cao mực nước biển....

-   Các thành tạo rắn chắc có khả năng hạn chế các tai biến kể trên.

Các yếu tố cường hóa tai biến:

-   Các yếu tố tự nhiên: địa hình, địa mạo, các thành tạo địa chất (đá gốc, cát, bùn).

-   Các hoạt động nhân sinh: chặt phá RNM, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, giao thông vận tải biển, NTTS, khai thác thủy sản, khai thác khoáng sản, làm muối.

 

 

 

Các đối tượng bị tổn thương

Tài nguyên vị thế:

-   Mũi nhô

-   Cảng biển

Một số đối tượng bị tổn thương như: mũi nhô, đá gốc, bãi cát/bùn gian triều, RNM, vùng cửa sông có khả năng chống chịu/phục hồi trước tai biến (xem phần khả năng ứng phó).

Cảnh quan đẹp về địa chất:

-   Bãi tắm

-   Cảnh quan ven biển

Tài nguyên đất ngập nước:

-   Vùng biển có độ sâu 6m nước khi triều kiệt

-   Cửa sông

-   RNM

-   Bãi cát/bùn gian triều

-   Vùng NTTS

-   Vùng làm muối

-   Sông, suối

-   Ruộng lúa

Tài nguyên khoáng sản

 

 

Khả năng ứng phó

Khả năng chống chịu/phục hồi của hệ thống tự nhiên:

-   Hệ sinh thái RNM

-   Vùng cửa sông và vùng ngập nước 6m

-   Mũi nhô và các thành tạo đá gốc

-   Bãi bùn/cát gian triều

 

Tiềm lực ứng phó xã hội:

-   Trình độ văn hóa

-   Công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên - môi trường và phòng tránh thiên tai

-   Cơ sở hạ tầng (hệ thống giao thông, trạm truyền thông)

 

2. Phân vùng mức độ tổn thương tài nguyên địa chất vịnh Gành Rái

Mức độ tổn thương TNĐC được đánh giá dựa trên cơ sở 3 nhóm yếu tố với các tiêu chí lựa chọn (Bảng 1). Kết quả đánh giá mức độ tổn thương là sự chồng chập của các chỉ số mức độ nguy hiểm do các yếu tố gây tổn thương, mật độ đối tượng bị tổn thương và khả năng ứng phó trên diện tích các ô vuông của bản đồ địa hình tỷ lệ 1/100.000. Bằng phương pháp đại số bản đồ, chỉ số tổn thương được xác định trên từng ô vuông. Dựa vào chỉ số này, khu vực nghiên cứu được phân thành 4 vùng có mức độ tổn thương khác nhau từ thấp đến cao (Hình 7).

 

km

Hình 7. Sơ đồ thể hiện mức độ tổn thương tài nguyên địa chất vịnh Gành Rái

Vùng I: Vùng có mức độ tổn thương thấp, chiếm 18,72% diện tích, phân bố ở địa hình cao thuộc các xã phía tây thị xã Bà Rịa (Hòa Long, Phước Long) và phía bắc huyện Tân Thành (Châu Pha, Tóc Tiên, Hắc Dịch). Đây là vùng cách xa bờ biển, có mức độ nguy hiểm thấp (chỉ chịu tác động của tai biến động đất, bão với cường độ nhỏ và gần như không bị sức ép của các hoạt động phát triển kinh tế); mật độ TNĐC kém phong phú (khoáng sản chủ yếu là làm vật liệu xây dựng và ĐNN là các vùng trồng lúa với diện tích nhỏ) và khả năng ứng phó ở mức trung bình (không có hệ thống RNM, khả năng chống chịu tai biến trung bình).

Vùng II: Vùng có mức độ tổn thương trung bình, chiếm 15,30% diện tích, phân bố chủ yếu ở huyện Tân Thành (xã Phước Hòa và Hội Bài), thị xã Bà Rịa (Long Hương, Phước Trung, Long Toàn, Phước Hưng) và diện tích nhỏ xa bờ thuộc xã Long Sơn, phường 4, 7, 9 (Tp Vũng Tàu). Vùng này có mức độ nguy hiểm trung bình - cao (với các tai biến dâng cao mực nước biển, bão lũ lụt, ô nhiễm môi trường và các hoạt động nhân sinh cường hóa tai biến như giao thông, các nhà máy và khu công nghiệp thuộc lưu vực sông Thị Vải qua địa phận huyện Tân Thành; hoạt động chặt phá RNM để NTTS và làm ruộng muối ở Long Sơn và Long Hương); mật độ đối tượng bị tổn thương tương đối cao (hệ sinh thái RNM phát triển nhất khu vực nghiên cứu, cùng với hệ thống cảng biển thuộc sông Thị Vải, các vùng NTTS, làm muối và hệ thống sông suối dày đặc). Trong khi đó, khả năng ứng phó tương đối cao đến cao (diện tích RNM lớn có khả năng phục hồi/chống chịu tốt như ở các phường của Tp Vũng Tàu). 

Vùng III: Vùng có mức độ tổn thương cao, chiếm diện tích lớn nhất khu vực (43,53%), bao gồm các phường 2, 5, 6, 11 và thôn 9 (xã Long Sơn), vùng cửa sông Dinh, thị trấn Phú Mỹ (huyện Tân Thành) và vùng biển 0-6m nước. Vùng được kết hợp giữa mức độ nguy hiểm cao (điển hình là chịu ảnh hưởng mạnh của sự cố tràn dầu, ô nhiễm môi trường, dâng cao mực nước biển, bồi tụ gây biến động luồng lạch); mật độ các đối tượng tổn thương cao với sự tập trung của tài nguyên vị thế (mũi nhô, cảng biển), KQĐC (bãi biển đẹp), ĐNN (hệ thống RNM, ruộng muối, đầm NTTS, các bãi cát/bùn gian triều và vùng biển có độ sâu dưới 6m khi triều kiệt) và khả năng ứng phó tương đối cao (khả năng phục hồi của hệ thống RNM rất tốt, khả năng chống chịu của các đối tượng tổn thương khác được bảo vệ qua hệ thống đê kè, trình độ dân trí khá cao, chính sách và công tác bảo vệ bờ biển tốt). 

Vùng IV: Vùng có mức độ tổn thương rất cao, chiếm 24,45% diện tích, gồm dải ven biển xã Long Sơn, phường 1, 10 (Tp Vũng Tàu) và các vùng cửa sông (Cái Mép, rạch Ông Bền, Mũi Giui và cửa Lấp). Vùng có mức độ nguy hiểm cao (chịu tác động của các tai biến sự cố tràn dầu, bồi tụ gây biến động luồng lạch với cường độ mạnh, tần xuất lớn và các hoạt động nhân sinh cường hóa tai biến ở mức độ cao (sự tập trung dân cư đông đúc, khai thác và NTTS, giao thông thủy...). Mật độ đối tượng bị tổn thương cao với các kiểu TNĐC có giá trị lớn, mật độ cao: hệ sinh thái RNM (xã Phước Hòa nằm giữa cửa sông Cái Mép và rạch Ông Bền, diện tích ven biển của xã Long Sơn kéo dài tới vùng cửa sông Mũi Giui); tài nguyên vị thế (cụm cảng thuộc Tp Vũng Tàu, cửa sông Lấp); KQĐC (bãi biển đẹp ở các phường 1, 10 Tp Vũng Tàu tạo điều kiện phát triển du lịch), tiếp đến là các kiểu ĐNN khác (vùng NTTS, vùng cửa sông, ruộng muối), trong đó, khả năng ứng phó ở mức trung bình - tương đối cao (chủ yếu là nhờ khả năng chống chịu và một phần diện tích nhỏ nhờ khả năng phục hồi của hệ sinh thái RNM).

Kết quả đánh giá tổn thương TNĐC vịnh Gành Rái cho thấy vùng có mức độ tổn thương cao thường là vùng được kết hợp giữa vùng mức độ nguy hiểm do các yếu tố gây tổn thương cao đến rất cao (ảnh hưởng mạnh các tai biến sự cố tràn dầu, xói lở, bồi tụ gây biến động luồng lạch, ô nhiễm môi trường), mật độ đối tượng bị tổn thương cao (các loại tài nguyên có giá trị và chức năng lớn như RNM, tài nguyên vị thế, KQĐC...) và khả năng ứng phó ở mức trung bình - tương đối cao (nhờ khả năng phục hồi/chống chịu của RNM, cơ sở hạ tầng cũng như công tác bảo vệ TNĐC và phòng tránh tai biến tương đối tốt). Những vùng có mức độ tổn thương thấp là nơi ít bị đe doạ bởi yếu tố gây tổn thương, mật độ TNĐC thưa thớt (nghèo hệ sinh thái nhạy cảm) và khả năng ứng phó trung bình. Trong những năm tới, mức độ tổn thương TNĐC ở khu vực nghiên cứu nói riêng, và vũng vịnh Việt Nam nói chung, dự báo tăng cao do sự biến đổi khí hậu toàn cầu (điển hình là ảnh hưởng trực tiếp của sự dâng cao mực nước biển) và tăng sức ép từ các hoạt động khai thác, sử dụng TNĐC không hợp lý (như khối lượng chất thải công nghiệp trên sông Thị Vải đổ qua vịnh Gành Rái).

IV. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN ĐỊA CHẤT VỊNH GÀNH RÁI

Mục tiêu sử dụng bền vững TNĐC vịnh Gành Rái là vừa đáp ứng nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân hướng tới công bằng, bình đẳng trong xã hội, vừa bảo vệ môi trường, hạn chế tai biến và bảo vệ, bảo tồn TNĐC. Để đáp ứng mục tiêu này, đồng thời phải tăng khả năng ứng phó của TNĐC và giảm mức độ thiệt hại của TNĐC do tai biến hay là làm giảm mức độ tổn thương TNĐC. Đó cũng chính là hướng tới sự phát triển bền vững - sự phát triển đảm bảo bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường [5]. Vì vậy, một số giải pháp sử dụng hợp lý TNĐC vịnh Gành Rái được đề xuất gồm: quản lý, tuyên truyền - giáo dục, quy hoạch sử dụng TNĐC và giảm thiểu thiệt hại do tai biến. Cơ sở của các giải pháp này được xây dựng dựa vào kết quả đánh giá tổn thương TNĐC.

1. Quản lý

- Tăng cường hiệu lực của pháp luật, chính sách: các hoạt động khai thác và sử dụng TNĐC phải tuân thủ hệ thống luật pháp, chính sách của Việt Nam như, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Luật khoáng sản…, đồng thời phải thực hiện các luật và công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, như Công ước Ramsar, Công ước về đa dạng sinh học… Cần ban hành các chính sách khuyến khích mở rộng các mô hình kinh tế sinh thái (du lịch sinh thái, NTTS sinh thái, khai khoáng bền vững…); lập quỹ bảo hiểm tai biến nhằm chia sẻ thiệt hại (điển hình là xói lở, bão, tràn dầu). Đặc biệt phải có các chế tài và hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với các cơ sở khai thác, sử dụng lãng phí gây tổn thất TNĐC, suy thoái cảnh quan, môi trường. Song song phải áp dụng luật bồi hoàn đối với các nguồn gây ô nhiễm (khu công nghiệp, nhà máy, phương tiện giao thông vận tải…). Thêm vào đó cần tăng cường, củng cố các phong tục, luật lệ truyền thống, hương ước ở địa phương phù hợp với bảo vệ môi trường, phòng tránh, giảm thiểu tai biến và sử dụng hợp lý TNĐC. 

- Quản lý tổng hợp: được thực hiện dựa trên cơ sở kết quả đánh giá tổn thương TNĐC là công tác quản lý được thực hiện theo đặc điểm ba nhóm yếu tố: các yếu tố gây tổn thương (tập trung quản lý tai biến); đặc điểm TNĐC (quản lý theo ngành NTTS, du lịch, giao thông…); khả năng ứng phó (quản lý dựa vào cộng đồng). Đối với các vùng có mức độ tổn thương cao, công tác quản lý cần chú trọng công tác phòng tránh, giảm nhẹ tối đa thiệt hại do tai biến và bảo vệ tài nguyên. Các hoạt động khai thác, sử dụng TNĐC cần được khuyến khích chuyển sang mô hình sinh thái. Đồng thời chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng về phòng chống tai biến, bảo vệ tài nguyên, môi trường; nâng cao trình độ cho các nhà quản lý, nhận thức của cộng đồng về giá trị và chức năng TNĐC. Cùng với đó là thúc đẩy hợp tác giữa các nhà quản lý với cộng đồng dân cư trong việc triển khai các mô hình kinh tế sinh thái; tăng cường thể chế, chính sách cho quản lý tổng hợp.

2. Tuyên truyền, giáo dục

Công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị và chức năng của TNĐC; kỹ thuật và công nghệ khai thác bền vững (thủy sản, khoáng sản); các nhân tố đe dọa tới TNĐC (điển hình là các tai biến xói lở, sự cố tràn dầu, bão, ô nhiễm môi trường). Đây là giải pháp rất cần thiết nhằm tăng tiềm lực ứng phó xã hội trước các yếu tố gây tổn thương. Để giải pháp này đạt hiệu quả cao cần tập trung vào các đối tượng là các nhà quản lý, người dân địa phương và học sinh. Trong đó, một số nguyên tắc cần lưu ý là: tôn trọng quyền hưởng thụ của các cộng đồng đối với lợi ích mà TNĐC mang lại; đề cao trách nhiệm, thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng, các bên liên quan và công tác giáo dục, tuyên truyền cần được thực hiện liên tục. Cùng với đó cần có các công tác hướng dẫn và quy định cho các du khách đến thăm quan du lịch có ý thức bảo vệ môi trường và TNĐC như giấy báo, truyền thanh, truyền hình, mạng Internet, tờ rơi…

3. Giảm thiểu thiệt hại do tai biến

Ở vùng nghiên cứu hiện mới có hệ thống kè chống xói lở ở phường 1 và phường 5 (Tp Vũng Tàu); kè đá do tư nhân đầu tư để bảo vệ một số khu du lịch ở các bãi tắm Thùy Vân, bãi Sau. Trong khi đó, vịnh Gành Rái là vùng chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của sự cố tràn dầu, là nơi tiếp nhận lượng nước thải đô thị và nhiều khu công nghiệp lớn. Nhằm giảm thiểu thiệt hại do tai biến, ngoài việc áp dụng các giải pháp phi công trình (quản lý, tuyên truyền và giáo dục) cần thực hiện một số giải pháp công trình sau:

- Củng cố và xây dựng hệ thống đê, kè chống xói lở ở các phường 1, 5, 8 và 11 (Tp Vũng Tàu);

- Xây dựng các trạm quan trắc, cảnh báo và dự báo sự cố tràn dầu, ô nhiễm môi trường;

- Khôi phục hệ sinh thái RNM ven biển xã Long Sơn, phường 11 (Tp Vũng Tàu), phường Long Hương (thị xã Bà Rịa) vừa tạo bức tường chắn sóng, phòng chống xói lở đồng thời bảo vệ môi trường, duy trì đa dạng sinh học.

Bảng 2. Một  số giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên địa chất vịnh Gành Rái

Phân vùng mức độ tổn thương TNĐC

Đề xuất giải pháp sử dụng hợp lý TNĐC

Vùng có MĐTT cao: các vùng cửa sông, dải ven biển thuộc phường 1, 10 và xã Long Sơn (Tp Vũng Tàu)

- Ưu tiên đầu tư, củng cố các công trình chống xói lở, bồi tụ gây biến động luồng lạch; bảo vệ, bảo tồn diện tích RNM.

- Tăng cường công tác ứng phó sự cố tràn dầu.

- Áp dụng các mô hình du lịch và NTTS sinh thái, khai thác thủy sản bền vững và hệ thống cảng biển có sự quản lý.

Vùng có MĐTT tương đối cao: Tp Vũng Tàu (phường 2, 5, 6, 11, 12); vùng cửa sông Dinh và phần lớn vùng biển 0-6m nước

- Ưu tiên đầu tư các công trình phòng ngừa và giảm thiểu thiệt hại do xói lở và sự cố tràn dầu.

- Triển khai và phát triển các mô hình kinh tế sinh thái: du lịch sinh thái và NTTS sinh thái, khai thác thủy sản và khoáng sản bền vững.

Vùng có MĐTT trung bình: ven sông Thị Vải, các phường ven biển của thị xã Bà Rịa và phường 4, 7, 9 ở Tp Vũng Tàu

- Ưu tiên phát triển mô hình NTTS và nông nghiệp sinh thái, phát triển hệ thống cảng biển, luồng lạch có sự quản lý.

- Bảo vệ, bảo tồn diện tích RNM.

- Thực hiện các giải pháp giảm thiểu thiệt hại do tai biến ô nhiễm môi trường, sự cố tràn dầu.

Vùng có MĐTT thấp: vùng địa hình cao, xa cửa sông, cảng biển thuộc huyện Tân Thành, thị xã Bà Rịa

- Ưu tiên phát triển các mô hình nông nghiệp sinh thái, khai thác khoáng sản bền vững.

- Phát động các hoạt động tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò, chức năng TNĐC.

4. Quy hoạch sử dụng tài nguyên địa chất

Dựa trên kết quả đánh giá mức độ tổn thương TNĐC, các vùng có mức độ tổn thương khác nhau tương ứng với sự phân bố và các hình thức khai thác, sử dụng TNĐC khác nhau, các hoạt động được đề xuất nhằm đáp ứng nội dung của quy hoạch theo không gian và thực hiện theo các hoạt động ưu tiên nhằm tăng khả năng ứng phó, trong đó, cần ưu tiên áp dụng các mô hình sử dụng bền vững TNĐC (du lịch sinh thái/bền vững, NTTS sinh thái, nông - lâm nghiệp sinh thái…) nhằm hạn chế các tác động tiêu cực đến tài nguyên - môi trường và giảm mâu thuẫn lợi ích trong khai thác và sử dụng TNĐC. Đồng thời áp dụng các biện pháp giảm thiểu thiệt hại do tai biến để hạn chế sự tổn thất tài nguyên (Bảng 2). Vì vậy, để quy hoạch thực hiện và đạt hiệu quả cao ở từng địa phương phải có sự thỏa thuận, sự tham gia xây dựng và thực hiện của các bên liên quan (các nhóm sử dụng TNĐC) và công tác quy hoạch phải tuân thủ theo các luật, nghị định của nhà nước ban hành.

Cụ thể đối với vùng có mức độ tổn thương cao, nhằm tăng cường khả năng ứng phó, công tác quy hoạch cần hạn chế tác động tiêu cực của các hoạt động khai thác và sử dụng TNĐC (giao thông vận tải - cảng biển, du lịch, khai thác và NTTS) và các tai biến (xói lở, sự cố tràn dầu, bồi tụ gây biến động luồng lạch). Do đó, các hoạt động được đề xuất gồm: du lịch sinh thái (phường 1, 10 - Tp Vũng Tàu, NTTS sinh thái (xã Long Sơn - Tp Vũng Tàu), khai thác thủy sản bền vững và bảo vệ, bảo tồn diện tích RNM (các khu vực cửa sông), kết hợp với các giải pháp giảm thiệt thiệt hại do tai biến.

V. KẾT LUẬN

Tiêu chí đánh giá tổn thương TNĐC được xây dựng trên 3 nhóm yếu tố: các yếu tố gây tổn thương (các tiêu chí về tai biến và yếu tố cường hóa tai biến) các đối tượng bị tổn thương (các kiểu TNĐC) và khả năng ứng phó của hệ thống tự nhiên - xã hội (khả năng chống chịu/phục hồi của tự nhiên và tiềm lực ứng phó xã hội).

Kết quả đánh giá mức độ tổn thương TNĐC vịnh Gành Rái đã được phân thành 4 vùng có mức độ từ thấp đến cao. Vùng có mức độ tổn thương cao thường là vùng có mức độ nguy hiểm cao đến rất cao (chịu ảnh hưởng mạnh của các tai biến xói lở, bồi tụ gây biến động luồng lạch, dâng cao mực nước biển; sự cố tràn dầu, ô nhiễm môi trường); mật độ đối tượng bị tổn thương cao (giàu có về RNM, tài nguyên vị thế, KQĐC...) và khả năng ứng phó ở mức trung bình - tương đối cao (với khả năng phục hồi/chống chịu của RNM, cơ sở hạ tầng cũng như công tác bảo vệ TNĐC và phòng tránh tai biến tương đối tốt). Ngược lại, vùng có mức độ tổn thương thấp là nơi ít bị đe doạ bởi yếu tố gây tổn thương, mật độ TNĐC thưa thớt (nghèo hệ sinh thái nhạy cảm) và khả năng ứng phó trung bình.

Dựa vào kết quả đánh giá mức độ tổn thương đã đề xuất các giải pháp sử dụng bền vững TNĐC như quản lý (tăng cường hiệu lực của pháp luật, chính sách, quản lý tai biến, quản lý dựa vào cộng đồng…); tuyên truyền giáo dục (tập huấn, truyền thanh, tờ rơi…); quy hoạch (NTTS, du lịch, nông nghiệp sinh thái, phát triển cảng có sự quản lý…) và giảm thiểu thiệt hại do tai biến (củng cố và xây dựng hệ thống kè chống xói lở, trạm quan trắc và dự báo tràn dầu…).  

VĂN LIỆU

1.   Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, 2003. Niên giám thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu năm 2003. Bà Rịa - Vũng Tàu.

2.   Cutter SL., 1996. Vulnerability to environmental hazards. Progress in Human Geography, 20 : 529-539.

3.   Cutter SL. et al., 2000. Revealing the vulnerability of people and places: A case study of Georgetown County, South Carolina. Ann. of Ass. of Amer. Geographers, 90/4 : 713-737.

4.   Lê Minh Đức, 2003. Định hướng và giải pháp thực hiện chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững của Việt Nam. Hội thảo vì sự phát triển bền vững của Việt Nam, tr. 25-37, Hà Nội.

5.   Gornitz V. M., Daniels R. C., White T. W., Birdwell K. R., 1994. The development of a coastal risk assessment database: Vulnerability to sea-level rise in the U.S. southeast. J. of Coastal Res., Spec. Issue, 12 : 327-338.

6.   Lê Thị Thu Hiền, Mai Trọng Nhuận, Trần Văn Ý, 2006. Đánh giá tổn thương phục vụ cho quy hoạch và quản lý môi trường (lấy ví dụ ở thành phố Hải Phòng và phụ cận). TC Các Khoa học về TĐ, 28/1 : 1-10. Hà Nội.

7.   Liên đoàn Địa chất Biển, 2005. Bộ phiếu điều tra kinh tế - xã hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu năm 2005. Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.

8.   NOAA, 1999. Community vulnerability assessment tool. CD-ROM. NOAA Coastal Services Center.

9.   Mai Trọng Nhuận, Đặng Văn Luyến, Nguyễn Thị Thúy Hằng, Trần Thanh Hải, Phạm Hùng Thanh, 2002. Đánh giá mức độ dễ bị tổn thương của hệ thống tự nhiên - xã hội đới ven biển (lấy ví dụ từ đới ven biển Khánh Hòa). TC Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, 18/4 : 25-33. Hà Nội.

10. Mai Trọng Nhuận (Chủ biên), 2004. Nghiên cứu, đánh giá mức độ bị tổn thương của đới duyên hải Nam Trung Bộ làm cơ sở khoa học để giảm nhẹ tai biến, quy hoạch sử dụng đất bền vững. Lưu trữ Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.

11.  Mai Trọng Nhuận và nnk, 2005. Đánh giá mức độ nguy hiểm do tai biến đới ven biển Việt Nam (lấy ví dụ đới ven biển Cam Ranh - Phan Rí). TC Địa chất, A/291. Hà Nội.

12.     Mai Trọng Nhuận (Chủ biên), 2005. Thành lập bản đồ hiện trạng địa chất tai biến và dự báo tai biến (0-30 m nước) vùng biển Hồ Tràm - Vũng Tàu. Lưu trữ Liên đoàn Địa chất Biển. Hà Nội.

13.     Mai Trọng Nhuận (Chủ biên), 2005. Thành lập bản đồ hiện trạng địa chất môi trường vùng biển Hồ Tràm - Vũng Tàu từ (0-30 m nước). Lưu trữ Liên đoàn Địa chất Biển. Hà Nội.

14.     Mai Trọng Nhuận, Nguyễn Thị Hồng Huế, Trần Đăng Quy, Nguyễn Tài Tuệ, 2005. Đánh giá mức độ dễ bị tổn thương đới ven biển Phan Thiết - Hồ Tràm, Việt Nam phục vụ phát triển bền vững. TC Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, 21/4 : 6-16. Hà Nội.

15.     Mai Trọng Nhuận (Chủ biên), 2007. Nghiên cứu đề xuất mô hình, giải pháp sử dụng bền vững tài nguyên địa chất đới duyên hải (lấy ví dụ vùng Phan Thiết - Vũng Tàu). Lưu trữ Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.

16.     Mai Trọng Nhuận (Chủ biên), 2007. Báo cáo “Xây dựng và trình ban hành hệ thống phân loại đất ngập nước Việt Nam”. Lưu trữ Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.

17.     Mai Trong Nhuan et al., 2008. Assessment of Vietnamese coastal wetland vulnerability for sustainable use (case study in Xuan Thuy Ramsar site, Nam Dinh province).  Proc. Asian Wetland Symp.. Hà Nội.

18.     SOPAC, 2004. Environmental Vulnerability Index. http://www.sopac.org.

19.     Trần Đức Thạnh (Chủ biên), 2005. Đánh giá hiện trạng, dự báo biến động và đề xuất giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên một số vũng vịnh chủ yếu ven biển Việt Nam. Đề tài KC.09-22. Bộ Khoa học và Công nghệ. Hà Nội.

20.     USEPA, 2001. The U.S.EPA’s Regional Vulnerablity Program: A research strategy for 2001- 2006.

21.     Website: www.baria-vungtau.gov.vn.com