MỘT SỐ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT DẤU VẾT
NGHI NGỜ  DO HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỘNG ĐẤT CỔ ĐỂ LẠI
TẠI MIỀN TÂY BẮC BỘ, VIỆT NAM

CAO Đ̀NH TRIỀU1, ROGOZHIN E.A.2, YUNGA S.L.2, NGÔ THỊ LƯ1, NGUYỄN HỮU TUYÊN1,
LÊ VĂN DŨNG1, NGUYỄN THANH TÙNG1, LÊ DUY BÁCH3, VŨ MINH TUẤN1

1Viện Vật lư Địa cầu, Viện KH&CN Việt Nam, Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội;
 2Viện Vật lư Trái đất, Viện HLKH Nga, Novosibirsk;
3Viện Khoa học Vật lỉệu, Viện KH&CN Việt Nam, Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội.

Tóm tắt: Trong công tŕnh này, các tác giả tŕnh bày một số kết quả điều tra khảo sát và phân tích các dấu vết nghi ngờ do hoạt động của động đất cổ để lại ở miền Tây Bắc Bộ. Kết quả cho thấy: 1) Có thể có một trận động đất mạnh đă xảy ra ở vùng Phong Thổ vào thời gian cách đây khoảng 530-480 năm; 2) Rất có khả năng đă xuất hiện một trận động đất cổ ở vùng Tuần Giáo trước động đất năm 1983. Thời gian xảy ra của động đất dự đoán này là cách nay khoảng 430-420 năm.


I. MỞ ĐẦU

Tháng 1/2007, đoàn công tác của các nhà khoa học Viện Vật lư Trái đất (Viện Hàn lâm Khoa học Liên Bang Nga) và Viện Vật lư Địa cầu (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đă tổ chức một chuyến khảo sát thực địa 10 ngày nhằm t́m kiếm vết tích động đất cổ tại miền Tây Bắc Bộ. Trong chuyến công tác này đă phát hiện được 6 vị trí có biểu hiện có thể là dấu vết để lại của hoạt động động đất. Mẫu phân tích đă được thu thập, gửi đi xác định tuổi tuyệt đối và đă cho kết quả.

Tháng 8/2007, một đoàn cán bộ khoa học của Viện Vật lư Địa cầu lại được cử lên Tây Bắc Bộ nhằm mục đích xác định quy mô trượt lở tại các vị trí nghi ngờ là do cổ động đất gây nên.

Trên thực tế, các trận động đất mạnh gây phá huỷ nghiêm trọng thường xuất hiện bất ngờ và nhiều khi khó phát hiện được các dấu hiệu dự báo trước. Chẳng hạn như trận động đất Đường Sơn (ngày 27/7/1976), trận Kobe (ngày 17/1/1995), trận Sumatra (ngày 26/12/2004). Chu kỳ lặp lại của những trận động đất đó lại rất lớn, hàng ngàn hoặc hàng vạn năm hay c̣n lớn hơn nữa, mà chưa có tư liệu nào giúp xác định rơ. Quan sát động đất bằng máy chỉ được phát triển mạnh mẽ trong ṿng 50 năm trở lại đây. Việc mô tả động đất một cách cẩn thận trong tư liệu lịch sử cũng chỉ có giới hạn nhất định. Chẳng hạn, được tiến hành tại Trung Nguyên, Trung Quốc từ năm 780 trước công nguyên; ở Nhật Bản cũng được tiến hành liên tục từ năm 1600 đến nay, một số ít trận động đất từ năm 416 cũng được ghi nhận; ở Hy Lạp, vào khoảng năm 1700 trước công nguyên; ở Mỹ và Canada được tiến hành muộn hơn, năm 1638, v.v..

Các ghi chép về động đất trong tư liệu lịch sử và nghiên cứu cổ động đất thường được rất chú trọng ở các nước phát triển. Những danh mục động đất lịch sử và cổ động đất này chủ yếu giúp chúng ta nghiên cứu mối quan hệ giữa động đất với cấu trúc địa chất, cũng như nghiên cứu tai biến động đất và phân vùng nhỏ động đất, phục vụ xây dựng nhà máy thủy điện hoặc điện nguyên tử, cũng như các công tŕnh xây dựng khác.

Ở Việt Nam, các ghi chép về động đất trong lịch sử cũng chỉ được tiến hành rất sơ lược từ thế kỷ 11-12. Đây là những tư liệu hết sức quư giá phục vụ nghiên cứu động đất. Tuy vậy, mức độ chi tiết và thời gian ghi nhận được động đất ở nước ta rất ngắn so với một chu kỳ hoạt động của động đất mạnh. V́ vậy, vấn đề nghiên cứu cổ động đất có ư nghĩa đặc biệt quan trọng, cần được tiến hành. Những kết quả bước đầu t́m kiếm dấu vết nghi ngờ là do cổ động đất gây ra đă được phát hiện và được các tác giả tŕnh bày tóm lược trong công tŕnh này.

II. BƯỚC ĐẦU T̀M KIẾM VẾT TÍCH CỔ ĐỘNG ĐẤT Ở MIỀN TÂY BẮC BỘ

Như chúng ta đă biết, một trận động đất mạnh xảy ra gây nên sự biến dạng ghê gớm của địa h́nh bề mặt. Dấu vết chính để lại thường là:

- Sạt lở bề mặt địa h́nh gây nên vùi lấp đất trồng trọt, hệ thống giao thông hay sông suối trên một diện tích rộng lớn;

- Hiện tượng hoá lỏng tạo nên những ḍng lũ bùn phủ kín bề mặt địa h́nh xung quanh nó. Các cột “ống phóng lũ bùn” cũng là những vết tích có thể được sử dụng trong nghiên cứu, phát hiện cổ động đất;

- Dịch chuyển đột ngột theo phương thẳng đứng, tạo nên dạng bậc địa h́nh dọc theo các đứt găy;

- Dịch trượt địa h́nh theo phương nằm ngang tạo nên sự xê dịch về mức địa h́nh, ḍng chảy sông suối;

- Các vết nứt tách rộng lớn, thường được các vật liệu trẻ vùi lấp.

Và rất nhiều hiện tượng khác nữa, mà chúng ta không thể đề cập đầy đủ trong công tŕnh này. Các vết tích này c̣n lưu lại trong đời sống địa chất của Trái đất cho đến ngày nay. Do đó, nghiên cứu cổ động đất cần phải tiến hành các việc: trước hết là t́m kiếm dấu vết của biến dạng địa h́nh do động đất gây ra; xác định tuổi tuyệt đối của các dấu vết đó, và quan trọng hơn cả là xác định được khả năng đă xảy ra trận động đất cổ tạo ra các dấu vết c̣n để lại cho tới ngày nay.

Mục đích của các chuyến khảo sát thực địa ở khu vực Tây Bắc Bộ của các tác giả trong năm 2007 là khảo sát, t́m kiếm các vết tích nghi ngờ do cổ động đất gây ra, lấy mẫu xác định tuổi tuyệt đối của thời gian gây ra các vết tích địa chất đó. Trong quá tŕnh khảo sát đă phát hiện được sáu vết tích nghi ngờ là của các trận động đất cổ.

Vị trí các điểm vết tích như sau:

- Điểm B́nh Lư 1 (Điểm 17) có toạ độ: 220 21’02,8” B; 1030 41’26,7” Đ; độ cao 946 m.

- Điểm B́nh Lư 2 (Điểm 18) có toạ độ: 22022’22,5” B; 103034’21,9” Đ; độ cao 1.100 m.

- Điểm Phong Thổ 1 (Điểm 19) có toạ độ: 22023’18,4” B; 103033’09,3” Đ; độ cao 1.266 m.

- Điểm Phong Thổ 2 (Điểm 20) có toạ độ: 22023’27,8” B; 103030’23,9” Đ; độ cao 858 m.

- Điểm Phong Thổ 3 (Điểm 21) có toạ độ: 22029’54,3” B; 103020’18,1” Đ; độ cao 543 m.

- Điểm Tuần Giáo (Điểm 22) có toạ độ: 21041’20,4” B; 103027’12,3” Đ.

Ba mẫu phân tích tuổi tuyệt đối được lấy tại các điểm 18 (B́nh Lư 2), 20 (Phong Thổ 2) và 22 (Tuần Giáo). Chúng được gửi đến Viện Khảo cổ học để phân tích tuổi tuyệt đổi bằng phương pháp carbon phóng xạ.


 


1. Kết quả phân tích tuổi tuyệt đối

Tuổi tuyệt đối của mẫu địa chất được xác định bằng phương pháp carbon phóng xạ (thực hiện tại Viện Khảo cổ học, 2007), dựa theo hai tiêu chuẩn: tiêu chuẩn truyền thống và tiêu chuẩn hiện đại.

1. Tiêu chuẩn truyền thống lấy T1/2 = 5.570 năm và các chỉ tiêu tương ứng.

2. Tiêu chuẩn hiện đại lấy T1/2 = 5.730±30 năm, cùng với việc áp dụng hợp lư các hiệu chỉnh thế kỷ (Michael and Ralph) tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 8 và chương tŕnh hiệu chuẩn quốc tế INT-98 về xác định tuổi bằng phương pháp carbon phóng xạ với độ tin cậy là 68,2% và độ tin cậy 95,4%.


Bảng 1. Kết quả phân tích tuổi tuyệt đối của mẫu địa chất
(Phương pháp carbon phóng xạ, theo tiêu chuẩn truyền thống, T1/2 = 5.570 năm)

TT

Vị trí lấy mẫu

Số hiệu chỉnh

δ13C theo PDB

Tuổi tuyệt đối theo mẫu chuẩn 0,95 NBS Ox.Ac.Std (năm)

Sai số xác định

tuổi (năm)

1

B́nh Lư 2

-25,0%

515

±50

2

Phong Thổ 2

-25,0%

480

±50

3

Tuần Giáo

-25,0%

420

±55

 

Bảng 2. Kết quả phân tích tuổi tuyệt đối của mẫu địa chất
(Phương pháp carbon phóng xạ, theo tiêu chuẩn hiện đại, T1/2 = 5.730±30 năm)

TT

Vị trí lấy mẫu

Thời gian đo mẫu (phút)

Tuổi tuyệt đối được xác định với việc áp dụng hiệu chuẩn quốc tế INT-98 (năm)

Sai số xác định tuổi (năm)

1

B́nh Lư 2

2 800

530

±50

2

Phong Thổ 2

2 800

495

±50

3

Tuần Giáo

2 800

430

±55

2. Mặt cắt địa chất của các điểm có vết tích động đất cổ

H́nh 2. Mặt cắt địa chất tại điểm lấy mẫu B́nh Lư 2 (Điểm 18)

Chú giải:  1. Đất trồng trọt, 2. Các tảng granit,3. Laterit màu đỏ,

4. Vị trí lấy mẫu phân tích tuổi tuyệt đối.

H́nh 3. Mặt cắt địa chất tại điểm lấy mẫu Phong Thổ 2 (Điểm 20)

Chú giải: 1. Laterit màu vàng chứa các mảnh vụn granit bị phong hoá, 2. Đới vụn nát trên đứt găy nghịch chờm, 3. Laterit màu vàng kề mặt đứt găy, 4. Laterit màu đỏ, 5. Các tảng granit, 6. Vị trí lấy mẫu phân tích tuổi tuyệt đối.


- Điểm B́nh Lư 1 (Điểm 17): Tại đây đă quan sát thấy một khối trượt lở núi rất lớn dạng khối đá lở cổ phương á vĩ tuyến dài trên 3 km, nằm dọc thung lũng của một con sông nhỏ.  Các tảng đá và các mảnh vở granit màu xám đen, thỉnh thoảng gặp các khối đá có góc mở với kích thước 2×2×2 m3, nằm lẫn trong lớp phong hoá dăm sét đến trạng thái đá ong gắn kết yếu. Trên sườn phía tây dăy núi quan sát thấy đới đứt đoạn của khối trượt này. Lớp thực vật bao phủ sườn núi có tuổi khoảng 50 năm.  

Phương phát triển của khối trượt lở là á vĩ tuyến. Kích thước của khối trượt như sau: chiều dài, L = 3,0 km; chiều rộng, W = 1,5 km; diện tích, S » 4,5 km2.


H́nh 4. Mặt cắt địa chất tại điểm lấy mẫu Tuần Giáo,
nơi đă xảy ra động đất năm 1983, chấn cấp 6,7 độ Richter (Điểm số 22)

               Chú giải:  1. Đất trồng, 2. Cát bùn, 3. Sét, 4. Tảng đá vôi, 5. Hốc chứa đất trồng cổ,
                               6. Vị trí lấy mẫu phân tích tuổi tuyệt đối, 7. Thảm cỏ.


- Điểm B́nh Lư 2 (Điểm 18): Tại điểm này quan sát thấy các khối và mảnh vụn granit nằm rải rác trong lớp laterit màu vàng ánh đỏ. Mẫu phân tích tuổi tuyệt đối được lấy trong lớp này.

Phương phát triển của khối trượt là TB-ĐN, trùng với phương phát triển của đứt găy Phong Thổ - Mù Căng Chải. Kích thước của khối trượt như sau: chiều dài, L = 4,0 km; chiều rộng, W = 1,5 km; diện tích, S » 6,0 km2.

- Điểm Phong Thổ 1 (Điểm 19): Tại điểm này quan sát thấy các khối và mảnh vụn đá granit nằm rải rác trong lớp laterit màu vàng ánh đỏ.

Kích thước của khối trượt như sau: chiều dài, L = 3,5 km; chiều rộng, W = 2,0 km; diện tích, S » 6,0 km2.

- Điểm Phong Thổ 2 (Điểm 20): Tại điểm này quan sát thấy một lớp sạt lở núi cổ phủ lên trên vùng đồi khá bằng phẳng. Trên vách trượt phương á vĩ tuyến của khối trượt núi này quan sát thấy đứt găy nghịch chờm, mà ở đó lớp trượt có cấu tạo phức tạp, lớp laterit nâu đỏ xen lẫn các mảnh vỡ kích thước từ hàng chục cm đến 1×1,5 m nằm đè lên lớp trượt khác có tuổi cổ hơn. Lớp trượt nằm dưới bao gồm các mảnh vỡ tṛn trịa, kích thước từ 0,5 đến 3,5 m, được bao bọc bởi lớp gắn kết laterit màu da cam, đoạn mảnh vụn “chảy ṿng”. Bề mặt trượt có góc phương vị 700 với góc cắm 300, là lớp bị oxit sắt hoá dày 5-10 cm, bị các dịch trượt thuận và nghịch phá huỷ ở một vài nơi. Trên cánh treo của đứt găy nghịch quan sát thấy lớp laterit dày 20-30 cm màu nâu sáng. Tại hố đào này (vị trí đào móng nhà gần núi đá vôi và con sông nhỏ, trên đường vào thị xă Lai Châu mới - Phong Thổ cũ) có thể đă xuất hiện hai lần trượt lở tại hai thời điểm khác nhau ở một vị trí.

- Điểm Phong Thổ 3 (Điểm 21): Tại vị trí này, trên sườn TN của một thung lũng rộng lớn quan sát thấy một khối trượt lở. Bản thân khối trượt chứa các tảng đá và mảnh vụn của sỏi kết và cuội kết màu đỏ (có thể là tuổi Carbon muộn?) có h́nh thù tṛn trịa, kích thước 2×2×4 m3 gắn kết yếu. Khối trượt tách khỏi khu vực bị trượt lở khoảng 4 km và chiều rộng của khối trượt là khoảng 3 km.

- Điểm Tuần Giáo (Điểm 22): Tại đới chấn tâm động đất Tuần Giáo (năm 1983) đă quan sát thấy một đoạn địa luỹ của một phá huỷ địa chấn cổ dài khoảng 100 m, cao 1,5 m. Tại nhiều nơi, biên độ của địa luỹ đạt 1,0-1,2 m, có lẽ là do động đất năm 1983 gây nên. Tại cánh hạ của địa luỹ (cùng phương kéo dài với chiều rộng 10-15 m) dân địa phương đă đào ba cái ao và một cái giếng. Dịch trượt nghịch trong động đất năm 1983 nâng cánh đông nam của đứt găy lên khoảng 10-20 cm. Đứt găy này được thể hiện trên mặt địa h́nh là sự tạo nên yên ngựa rộng 20-30 m và sâu hơn các khối bên cạnh 10-15 m.

Ở đoạn cuối của địa luỹ phát hiện thấy một dịch trượt địa chấn chiều cao khoảng 10 cm. Có thể nhận thấy dấu hiệu dịch trượt chờm nghịch dọc theo bậc với biên độ là khoảng 1,2 m. Trên sườn đông nam có góc dốc 35-400 phát hiện thấy dịch trượt nằm ngang về phía địa luỹ cao 1,2 m. Gần chân phần trên của địa luỹ, phát hiện thấy một lớp đất trồng màu vàng, trong khi ở phần đáy của địa luỹ này lại không thấy lớp này. Địa lũy được tạo bởi lớp á sét màu nâu vàng.

Tại vùng trung tâm của đoạn phá huỷ cổ địa chấn (điểm 22B) phát hiện thấy sự thay đổi bề dày lớp đất trồng. Trên cách chờm tây bắc của phay nghịch có chiều dày 1-3 cm và tăng dần về phía tây bắc đến 10 cm. Tại cánh hạ của phá huỷ, lớp đất trồng trở nên sẫm màu hơn và chiều dày của nó biến đổi nhảy bậc, đến 25 cm. Dưới lớp đất trồng là lớp á sét chứa các phân lớp mỏng sét màu nâu vàng dày 3-5 cm. Góc phương vị của các lớp này là 3350 TB, góc dốc 5-70. Các lớp này bị phá huỷ bới hai đứt găy gần thẳng đứng ở khoảng cách 5-7 m từ địa luỹ. Phát hiện thấy cánh tây bắc nâng lên khoảng 2-3 cm. Cách xa hơn so với địa luỹ của phá huỷ cổ động đất phát hiện thấy túi khe hở lấp đầy đất trồng cổ (điểm lấy mẫu phân tích tuổi tuyệt đối). Có lẽ quá tŕnh lấp đầy túi lỗ hổng bằng vật liệu đất trồng cổ này gắn liền với việc h́nh thành vết nứt cổ địa chấn, trước cả những động đất ghi nhận được qua tài liệu ghi chép lịch sử.

Trên vách của hào về phía đới phá huỷ của động đất năm 1983, gần với phần cuối tây nam của địa luỹ (điểm 22D), quan sát thấy sự thiếu vắng đất trồng hiện đại ở cánh nâng và thỉnh thoảng lớp này xuất hiện ở cánh hạ. Hơn thế nữa, bề dày của nó lập tức có thể đạt tới 20 cm. Trong vùng phá huỷ địa chấn, ngoài những biểu hiện kể trên, c̣n thấy sự thay đổi độ dốc của mặt địa h́nh. Tại cánh nâng phương vị 3300 TB có góc dốc 180, trong khi tại cánh hạ, 3300 TB, có góc dốc 5-80. Quan sát thấy trên vách hào ba khe nứt bị uốn cong chữ chi (2-3 mm) phương gần thẳng đứng.

Nh́n chung, địa luỹ song hành với hai khe nứt chữ chi chạy về hai phía đầu cuối (22B và 22D). Đứt găy có phương gần vĩ tuyến, bề rộng 30-50 cm, khe nứt bị che phủ bởi các bụi rậm, nhưng có thể thấy rơ tại khoảng cách hàng chục mét về phía đông của địa luỹ cổ. Dọc theo hai khe nứt này quan sát thấy các phễu dạng hang động. Tại khe nứt phương gần đông bắc hơn, cánh bắc bị hạ xuống khoảng 0,8 m so với cánh nam. Nh́n chung, cặp khe nứt này có thể được coi như là cấu trúc của sự dập vỡ, kèm theo dịch trái dọc theo đới phá huỷ địa chấn.

III. ĐỚI ĐỨT GẪY PHONG THỔ - MÙ CĂNG CHẢI VÀ KHẢ NĂNG XẢY RA ĐỘNG ĐẤT CỔ TẠI VÙNG PHONG THỔ

Đặc trưng cấu trúc của đới đứt găy Phong Thổ được Cao Đ́nh Triều và nnk., [1-5] mô tả là có phương phát triển TB-ĐN cắm về phía tây nam. Chiều dài đới đứt găy (L) khoảng 270 km, chiều rộng (W) 40 km, độ sâu xuyên cắt cỡ 20-30 km. Đới đứt găy này có biểu hiện rơ nét trên tài liệu từ hàng không và dị thường trọng lực Bouguer. Nó cũng chính là ranh giới phân chia khối cấu trúc có trạng thái cân bằng vỏ Trái đất khác biệt. Và nó cũng có biểu hiện rất rơ nét là ranh giới của khối cấu trúc có biểu hiện dịch chuyển thẳng đứng trong hiện tại theo tài liệu đo lặp thuỷ chuẩn (H́nh 5) [6]. Biểu hiện hoạt động nước khoáng và nước nóng cũng phát hiện thấy nhiều nơi dọc đới đứt găy này. Theo tài liệu động đất của Viện Vật lư Địa cầu th́ cũng đă phát hiện thấy động đất xảy ra khá thường xuyên trong đới đứt găy Phong Thổ - Mù Căng Chải và với chấn cấp (Ms) nằm trong giới hạn 4,0 - 4,9 độ Richter.

Như vậy, đây là đới đứt găy có biểu hiện hoạt động mạnh trong hiện tại. Tuy rằng động đất quan sát được trong thời gian qua tại đới này không mạnh, song có lẽ nguy cơ tiềm ẩn của phát sinh động đất mạnh là rất cao.

1. Cực đại động đất đới đứt găy Phong Thổ - Mù Căng Chải tính theo công thức toàn cầu của Wells và Coopper-Smith (1994)

Trên cơ sở phân tích thống kê quan hệ giữa cấu trúc của đới đứt găy trong động đất và độ lớn động đất (theo số liệu có được trên toàn thế giới), Wells và Coppersmith [7] đă đưa ra  một số công thức thực nghiệm phục vụ việc đánh giá cực đại động đất dọc theo đứt găy phát sinh. Hiện tại công thức này được sử dụng rộng răi trên thế giới, nhất là trong nghiên cứu tai biến động đất bằng phương pháp tất định mới.

 V́ chúng ta chỉ có hiểu biết sơ bộ về chiều dài và chiều rộng của đới đứt găy Phong Thổ - Mù Căng Chải, nên các tác giả chỉ sử dụng hai công thức về quan hệ giữa chiều dài và chiều rộng của đứt găy với độ lớn động đất của Wells và Coopper-Smith. Các công thức này có dạng: 

Ms = 4,38 + 1,49 log L (1)

Ms  = 4,06 + 2,25 log W  (2)

Thay L = 270 km vào công thức 1 ta nhận được M = 8,0 độ Richter. Tương tự như vậy, nếu thay W = 40 km vào công thức 2 ta nhận được giá trị chấn cấp động đất là 7,7 độ Richter.

2. Khả năng  xảy ra động đất cổ tại vùng Phong Thổ

Trong phạm vi vùng B́nh Lư - Phong Thổ, dọc theo các điểm khảo sát đă quan sát thấy dấu hiệu của các khối trượt lở lớn (các điểm 17, 18, 19, 20 và 21), có thể xảy ra trong trạng thái bị tác động đột ngột, mạnh của những dao động bề mặt Trái đất. Các dao động như vậy thông thường chỉ có thể do một trận động đất mạnh gây nên.

Năm 1997, khi nghiên cứu quy luật hoạt động động đất ở Tây Bắc Bộ, Cao Đ́nh  Triều  và Nguyễn Thanh Xuân [3] đă dự báo là vùng Phong Thổ là nơi có thể sẽ xảy ra động đất mạnh.

Tuy rằng với mức độ quan trắc hiện nay chúng ta chỉ thấy động đất đă xảy ra dọc đới đứt găy Phong Thổ - Mù Căng Chải có giá trị chấn cấp nằm trong giới hạn nhỏ hơn 5 độ Richter, song nếu xác định theo công thức Wells và Coppersmith th́ đới đứt găy này có thể có khả năng xảy ra động đất với chấn cấp bằng 8,0. Với động đất như vậy, nếu chấn tiêu nằm ở độ sâu không lớn sẽ đương nhiên gây nên biến dạng bề mặt địa h́nh và sạt lở nghiêm trọng.


 

H́nh 5. Hệ thống đứt găy ở Tây Bắc Bộ và đặc trưng chuyển động hiện đại

Chú giải:


Với những ǵ đă quan sát được ngoài thực địa, trên cơ sở kết quả phân tích tuổi tuyệt đối ta có thể dự đoán về khả năng một trận động đất mạnh đă xảy ra tại vùng Phong Thổ vào thời gian cách đây khoảng từ 480 đến 530 năm.

IV. MỘT TRẬN ĐỘNG ĐẤT CỔ CÓ THỂ ĐĂ XẢY RA TẠI VÙNG CHẤN TÂM ĐỘNG ĐẤT TUẦN GIÁO CÁCH ĐÂY 420-430 NĂM

Trong quá tŕnh khảo sát thực địa vùng chấn tâm động đất Tuần Giáo năm 1983, đới khe nứt phương ĐB, gần vuông góc với đới đứt găy Sơn La, nơi đă xảy ra động đất Tuần Giáo năm 1983, thể hiện khá rơ nét. Đới khe nứt này được h́nh thành trong điều kiện bị tác động nội lực đột ngột và được lấp đầy đất trồng cổ. Sự dịch trượt chờm nghịch của đới khe nứt cũng như biểu hiện của cấu trúc địa h́nh, địa mạo tại vùng khảo sát cho phép nhận định về khả năng đă xuất hiện một động đất cổ tại khu vực Tuần Giáo. Kết quả phân tích tuổi tuyệt đối cho thấy thời gian xảy ra động đất này là cách đây khoảng 420-430 năm.

V. KẾT LUẬN

Việc phân tích tài liệu khảo sát thực địa, phân tích tuổi tuyệt đối và đánh giá động đất cực đại của đới đứt găy Phong Thổ - Mù Căng Chải cho phép rút ra một số nhận định sau:

1. Các điểm trượt lở núi lớn thuộc phạm vi vùng B́nh Lư - Phong Thổ có thể do động đất cổ gây ra. Các kết quả tính toán động đất cực đại đới đứt găy Phong Thổ - Mù Căng Chải và tuổi tuyệt đối có thể cho phép xác định là đă có một động đất mạnh đă xảy ra tại vùng Phong Thổ vào thời gian cách đây khoảng từ 480 đến 530 năm.

2. Khả năng đă xuất hiện một trận động đất cổ tại vùng Tuần Giáo trước động đất năm 1983 là rất lớn. Kết quả phân tích tuổi tuyệt đối cho thấy thời gian động đất này đă xảy ra cách đây khoảng 420-430 năm.

Cũng cần nói rằng trên đây chỉ là những nhận định bước đầu cần phải được điều tra, khảo sát và phân tích một cách chi tiết và khoa học hơn trong thời gian tới để tiến tới một kết luận rơ ràng hơn. Tuy vậy, những ǵ đă quan sát thấy tại điểm Phong Thổ 2 (điểm khảo sát 20) lại cho phép chúng ta suy nghĩ về không chỉ là một trận cổ động đất đă xuất hiện tại vùng Phong Thổ. Kết quả khảo sát tại Tuần Giáo có thể được chứng minh chặt chẽ hơn và có kết luận cụ thể hơn nếu chúng ta tiến hành xác định được động đất lớn nhất cũng như chu tŕnh xảy ra động đất mạnh tại khu vực này.

Kết quả đạt được trong nghiên cứu này đă mở ra một hướng mới về nghiên cứu cổ động đất ở Việt Nam.

VĂN LIỆU

1. Cao Đ́nh Triều, 1997. Đứt găy sinh chấn Tây Bắc Việt Nam. TC Các khoa học về TĐ, 19/3 : 214-219. Hà Nội.

2. Cao Đ́nh Triều, 1997. Một số kết quả bước đầu đánh giá vận tốc dịch chuyển và trạng thái ứng suất vỏ Trái đất lănh thổ Việt Nam. TC Địa chất, A/240 : 33-39. Hà Nội.

3. Cao Đ́nh Triều, Nguyễn Thanh Xuân, 1997. Quy luật phân bố chấn tâm và khả năng dự báo khu vực phát sinh động đất mạnh ở Tây Bắc Việt Nam. TC Địa chất, A/238 : 33-38. Hà Nội.

4. Cao Đ́nh Triều, Nguyễn Thanh Xuân, 2000. Đánh giá trạng thái ứng suất vỏ Trái đất khu vực Tây Bắc Việt Nam trên cơ sở phân tích ảnh vệ tinh. TC Các khoa học về TĐ, 22/1 : 1-9. Hà Nội.

5. Cao Đ́nh Triều, Phạm Huy Long, 2002. Kiến tạo đứt găy lănh thổ Việt Nam. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 208 trg.

6. Nguyễn Thế Lữ (Chủ biên), 1987. Phân tích kết quả đo lặp thuỷ chuẩn phần phía Bắc lănh thổ Việt Nam giai đoạn 1960-1964 và 1978-1979. Tổng cục Địa chính, Hà Nội, 50 trg.

7. Wells D.L., Coppersmith K.J., 1994. New empirical relationships among magnitude, rupture length, rupture width, and surface displacement. Bull. Seism. Soc. Amer., 84 : 974-1002.