NGUY CƠ Ô NHIỄM ARSEN TRONG MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
Ở VIỆT
ĐẶNG VĂN CAN1,
ĐỖ TRỌNG SỰ2, HỒ VƯƠNG BÍNH3,
ĐÀO NGỌC PHONG4, ĐOÀN
THỊ NGỌC HUYỀN1
1Viện Khoa học Địa chất và Khoáng
sản, Thanh Xuân, Hà Nội
2 Bộ Tài nguyên và Môi trường, Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội
3
Viện
Địa chất và Môi trường, 6 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội
4 Đại học Y Hà Nội, 1 Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội
Tóm tắt: Ô nhiễm arsen trong môi trường tự nhiên ở Việt
I. GIỚI THIỆU
Arsen (As) là nguyên tố đặc biệt cần thiết (khi
ở hàm lượng rất thấp) và là chất độc cực mạnh (khi ở hàm lượng đủ lớn). Các dị thường
arsen (nơi có hàm lượng arsen cao) có thể có hai nguyên nhân: do các quá trình
tự nhiên và do hoạt động nhân sinh (chất thải của các khu công nghiệp, chất trừ
sâu, diệt cỏ, vũ khí hoá học...). Bài báo này chỉ nói hạn chế về các dị thường arsen
trong tự nhiên và vấn đề gây ô nhiễm của chúng. Khu vực có thể bị ô nhiễm arsen
trong môi trường tự nhiên bao gồm cả miền rừng núi và một số nơi ở đồng bằng.
II. Ô NHIỄM ARSEN Ở VÙNG RỪNG NÚI
Phần lớn diện tích của Việt
1. Dạng tồn tại của arsen trong đá và quặng gốc
Arsen trong các mỏ quặng nhiệt dịch tồn tại dưới
dạng các khoáng vật như: arsenopyrit (FeAsS), realgar (AsS), oripigmen (As2O3),
scorodit (FeAsO4.2H2O), loellingit (FeAs2),
grexdorfit (NiAsS), glaucodot (CuFeAsS), cobaltin (CoAsS), prustit (Ag3AsS),
enargit (CuAsS4), tennantit (Cu12As4S13),
nickelin (NiAs), rammensbergit (NiAs2), chloantit (NiAs3),
..., trong đó khoáng vật chứa arsen phổ biến nhất trong các mỏ nhiệt dịch là arsenopyrit.
Đại đa số các trường hợp gặp arsen trong các vùng quặng sulfur đa kim, trong các
mỏ vàng, antimon, thuỷ ngân, cobalt, molybden, đồng, thiếc.
Bảng 1. Hàm
lượng arsenopyrit và arsen trong một số vùng quặng ở Việt
TT |
Kiểu quặng |
Khu vực, vùng |
Diện tích |
Arsenopyrit (%) |
Arsen (g/t hoặc %) |
1 |
Thạch anh -
arsenopyrit-cassiterit |
Quỳ Hợp |
25 km2 |
|
8-15% |
2 |
Thạch anh -
arsenopyrit-cassiterit |
Đa Lu, Play Non hạ |
|
|
0,5-4,5% 2-12,4% |
3 |
Thạch anh -
arsenopyrit-cassiterit |
Phú Lâm, Tuyên Quang |
11 km2 |
|
0,52-9,79% |
4 |
Thạch anh
-arsenopyrit-vàng |
Làng Đầu |
|
|
0,23-29,81% |
5 |
Thạch anh
-arsenopyrit-vàng |
Vai Đào - Cao Răm |
|
|
2-15% |
6 |
Thạch anh
-arsenopyrit-vàng |
Xuân Thu, Trà Bắc |
|
|
0,8-19,12% |
7 |
Antimonit-pyrit-arsenopyrit-vàng |
Làng Vài, Chiêm Hoá |
29,25 km2 |
|
0,1-24,16% |
8 |
Antimonit-pyrit-arsenopyrit-vàng |
Lũng Cóc, Nà Ngần |
|
|
1,26% |
9 |
Pyrit-arsenopyrit-sphalerit-galenit |
Chợ Điền, Tuyên Quang |
150 km2 |
|
1,92-19,1% |
10 |
Pyrit-arsenopyrit-sphalerit-galenit |
Ancroet, Sông Trao |
|
2-25% |
1-19,1% |
11 |
Đồng porphyr |
Tà Lương - |
150 km2 |
|
0,03% |
12 |
Listvenit từ đá siêu mafic |
Hin Hụ - Bang Mon |
>4 km2 |
ít -3% |
72,4 g/t |
Ghi chú: 1, 2, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 - theo tài liệu của Nguyễn Kinh Quốc
[9]; 3- theo tài liệu Đỗ Đình Hiển
[6];12- theo tài liệu của Đặng Văn Can [1, 2].
2. Arsen trong quặng gốc
Trong các mỏ nhiệt dịch, các khoáng vật chứa arsen
thường đi cùng với các khoáng vật quặng khác tạo nên các tập hợp quặng khác
nhau được gọi là kiểu quặng. Bảng 1 dẫn ra làm ví dụ một số mỏ nhiệt dịch có
hàm lượng arsen cao theo một số kiểu quặng ở Việt
3. Arsen trong đới quặng phong hoá
Các loại quặng gốc có chứa arsen khi bị phong hoá
thường tạo thành những đới đỏ nâu và nhẹ hơn quặng gốc (do một số thành phần trong
quặng bị rửa trôi). Qua nghiên cứu cụ thể ở vùng quặng listvenit thuộc đới Sông
Mã (tỉnh Sơn La) ta thấy các đới quặng bị phong hoá có màu đỏ nâu cũng có hàm
lượng arsen rất cao (Bảng 2). Điều đó chứng tỏ arsen trong đới quặng nhiệt dịch
(hoặc đới biến đổi nhiệt dịch) ít bị di chuyển trong quá trình phong hoá.; phần
lớn chúng bị giữ lại trong tầng phong hoá. Có lẽ chỉ một lượng nhỏ arsen được
di chuyển đi bởi nước bề mặt (nước mưa, nước suối, nước lũ) và nước dưới đất.
Bảng 2. Hàm lượng arsen trong
các đới biến đổi nhiệt dịch bị phong hoá đỏ nâu
ở thượng nguồn sông Mã.
TT |
Công trình |
Tần suất bắt gặp |
Hàm lượng (g/t) |
|
Trung bình |
Cực đại |
|||
1 |
H36.2 |
1/4 |
75 |
300 |
2 |
H35.2 |
2/7 |
70 |
300 |
3 |
H7.2 |
6/11 |
76 |
300 |
4 |
H10.3 |
1/3 |
70 |
200 |
5 |
G22 |
4/10 |
65 |
200 |
6 |
G23 |
4/10 |
51 |
300 |
Ghi chú: Hàm lương trung bình của arsen trong quyển đá là 1,9 g/t (Vinogradov
A. P., 1962).
Bảng 3. Hàm lượng arsen trong
đất ở đới quặng antimon Làng Vài - Đầm Hồng
TT |
Số hiệu mẫu |
Nơi lấy mẫu đất |
Hàm lượng As (g/t) |
TT |
Số hiệu mẫu |
Nơi lấy mẫu đất |
Hàm lượng As (g/t) |
1 |
LV.1-2 |
Trên đới quặng |
2963 |
5 |
LV.8-9 |
Trên vành phân tán Sb-As |
1118 |
2 |
LV.3-4 |
Cách đới quặng 100 m |
1220 |
6 |
LV.10-11 |
Trên hố khai thác quặng |
1995 |
3 |
LV.5 |
Đỉnh lò khai thác |
2583 |
7 |
LV. 12-13 |
Cách lò khai thác 500 m |
1361 |
4 |
LV.6-7 |
Trên đới khoáng |
1632 |
8 |
LV.14-15 |
Trên hố khai thác |
2341 |
4. Arsen trong đất ở các vùng quặng
Nghiên cứu lớp thổ nhưỡng ở các vùng quặng
có dị thường arsen cũng thấy chúng có hàm lượng arsen cao, chứng tỏ ở các vùng quặng
arsen cao, chúng vẫn trong các lớp thổ nhưỡng. Bảng 3 nêu lên hàm lượng arsen đất
ở vùng mỏ antimon-pyrit-arsenopyrit-vàng Làng Vài [8].
Lớp thổ nhưỡng có hàm lượng arsen cao chắc chắn
sẽ ảnh hưởng đến thảm thực vật trên đó. Để nghiên cứu vấn đề này, Hồ Vương Bính
và nnk. [8] đã tiến hành lấy mẫu thực vật ở hai tuyến cắt qua đới quặng Làng Vài
- Đầm Hồng với tổng số 160 mẫu cho 3 loài cây. Phân tích tro của các cây đã lấy,
ta thấy loại Dương xỉ bào tử song song (Pseudocyclosorus indochinensis) là
thể hiện rõ có dị thường arsen. Hàm lượng arsen trong tro cây trên đới quặng lớn
gấp 10 lần hàm lượng trung bình của nó trong thực vật. Hàm lượng trung bình của
arsen trong thực vật vùng Đầm Hồng là 0,01%; hàm lượng cao nhất là 0,4%.
5. Arsen trong nước ở các khu vực mỏ quặng giàu arsen
Một số nghiên cứu nước ở các khu mỏ cho thấy chúng
cũng cao dị thường. Các kết quả khảo sát phân tích nước bề mặt và các nguồn lộ ở
11 khe suối đổ ra sông Mã dọc vùng ĐN Bản Phúng (khu mỏ listvenit) cho thấy các
khe suối ở đây đều là các khe nhỏ, mùa khô (11/1990) chỉ có nước ở gần cửa khe
với lưu lượng 0,02-3,5 l/s. Ở hữu ngạn mật độ suối thưa hơn, lưu lượng 0,2-25
l/s. Điều đáng lưu ý là hàm lượng arsen của nước ở khác khe trong khu vực nói
trên đều cao (0,43-113 mg/l) (Bảng 4), so với chỉ tiêu hàm lượng arsen trong nước sinh hoạt (<0,05
mg/l) thì ở đây hàm lượng arsen trong nước ở các khe đều vượt quá chỉ tiêu cho
phép. Điều này chứng tỏ một lượng nhỏ arsen trong đới quặng được di chuyển vào
nước, làm cho nước ở các khe suối trở nên không an toàn cho mục tiêu nước sinh
hoạt, đặc biệt ở mùa khô.
Bảng 4. Hàm lượng arsen trong
nước ở các khe thuộc vùng mỏ listvenit
ở đông nam Bản Phúng (xã Bó Xinh, huyện Sông Mã, Sơn La)
TT |
Số hiệu mẫu |
Hàm lượng (mg/l) |
TT |
Số hiệu mẫu |
Hàm lượng (mg/l) |
1 |
DN0-1 |
0,86 |
10 |
DN8-2 |
0,86 |
2 |
DN1-1 |
0,57 |
11 |
DN9-1 |
0,43 |
3 |
DN1-2 |
0,56 |
12 |
DN9-2 |
0,43 |
4 |
DN3-1 |
0,43 |
13 |
TB1-1 |
0,86 |
5 |
DN3-2 |
0,72 |
14 |
TB1-2 |
0,86 |
6 |
DN7-1a |
0,57 |
15 |
TB2-1 |
0,86 |
7 |
DN7-1b |
0,72 |
16 |
TB2-2 |
0,72 |
8 |
DN-7-2 |
0,86 |
17 |
TB3-1 |
0,72 |
9 |
DN8-1 |
1,15 |
|
|
|
6. Nhận định về ô nhiễm arsen trong không khí ở các khu mỏ có hàm lương arsen cao
Đới quặng (hoặc đới biến đổi nhiệt dịch) có hàm
lượng arsen cao khi lộ ra gần bề mặt lộ ra bề mặt, thì không khí vùng đó cũng dễ
dàng bị ô nhiễm arsen. Vì rằng nước ta ở khu vực khí hậu nhiệt đới, nắng lắm mưa
nhiều; sau đợt nắng to mà có mưa sẽ dễ gây phản ứng tạo khí và hơi độc chứa arsen
và các khí, hơi độc khác (chướng khí) bốc lên gây ảnh hưởng tới người và gia
súc sống trên vùng đó.
III. Ô NHIỄM ARSEN Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG
Việc nghiên cứu ô nhiễm arsen ở vùng đồng bằng tại
Việt Nam chưa có nhiều số liệu, song ở nước ngoài có những vùng đồng bằng rộng lớn
như Tây Bengal (Ấn Độ) và Bangladesh, nước dưới đất được nghiên cứu phát hiện bị
ô nhiễm arsen. Tại
Hình 1. Hình minh hoạ khu mỏ (hoặc đới biến đổi nhiệt dịch) có hàm lượng
arsen cao
có ảnh hưởng xấu tới môi trường sống.
Hình 2. Mô hình diễn giải khả năng ô nhiễm arsen trong nước dưới đất ở
đồng bằng.
Ghi chú: 1. Đới chứa quặng (hoặc đới biến đổi nhiệt dịch giàu
arsen) chưa xuất lộ trong các vùng magma kế cận; 2. Các vùng đá xâm nhập kế cận
đồng bằng; 3. Các vùng đá phun trào kế cận đồng bằng; 4. Các đứt gãy cắt qua
vùng quặng giàu arsen chưa xuất lộ; 5. Trầm tích Đệ tứ.
Để hiểu rõ hơn sự có mặt của arsen trong các tầng
chứa nước trên địa bàn Hà Nội, có thể xem các Hình 3 và 4.
Ở Việt
- Tầng QII: gần 28% số mẫu vượt
giới hạn 0,05 mg/l.
- Tầng QI1-3: gần 6%
số mẫu vượt giới hạn 0,05 mg/l.
Hình 3. Biểu đồ hàm lượng arsen trong nước tầng Holocen một số vùng
thuộc Hà Nội
Hình 4. Biểu đồ hàm lượng arsen trong nước tầng Pleistocen một số
vùng thuộc Hà Nội
Tóm lại, hàm lượng arsen trong các vùng dị thường
địa hoá (vùng mỏ, vùng đá biến đổi nhiệt dịch) rất cao. Qua các công trình nghiên
cứu có thể xác lập một số thông số địa hoá dưới đây để làm tiêu chuẩn đánh giá
[8]:
- Hàm lượng giới hạn cho phép của As trong đất
là 21 g/t;
- Hàm lượng giới hạn cho phép của As trong cây
là 10 g/t;
- Hàm lượng giới hạn cho phép của As trong nước
là 0,05 mg/l (TCVN-1995).
IV. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU Y TẾ VỀ NHIỄM ĐỘC ARSEN NGUỒN TỰ NHIÊN
Tại Tây Bengal (Ấn Độ) và Bangladesh, các nghiên
cứu y tế [10] cho thấy có khoảng 200.000 người ở Tây Bengal và vài nghìn người ở
Bangladesh bị nhiễm độc arsen. Các biểu hiện lâm sàng ban đầu của bệnh nhiễm độc
arsen là chứng sạm da (melanosis) và dày biểu bì (keratosis); những người bị
nhiễm độc arsen nhiều năm có thể bị hoại thư hoặc ung thư da (những người đã uống
nước nhiễm độc arsen khoảng 30 năm).
Các khu mỏ khai thác và chế biến quặng thiếu biện
pháp phòng ngừa làm ô nhiễm arsen trong nước và đất. Ví dụ tại vùng Ronphiboon,
Thái Lan [11] đã phát hiện gần 1000 người bị mắc bệnh nhiễm độc arsen mãn tính,
trong đó 1 người đã chết và 20 người được chuẩn đoán là bị ung thư da do nhiễm độc
arsen; hơn 80% học sinh trong vùng có hàm lượng arsen cao trong tóc và móng tay.
Các xét nghiệm lâm sàng tại Nhật cho thấy trong số 29 người uống nước giếng bị
ô nhiễm arsen có 27 người (93%) mắc bệnh xạm da và 22 người (76%) mắc bệnh tăng
sừng hoá bẩm sinh gan bàn chân (palmoplantar hyperkeratosis). Nguyên nhân ô nhiễm
arsen chủ yếu là do khai thác quặng thiếc và antimon ở Ronphiboon trong hơn 60
năm qua, trong quặng có hàm lượng arsenopyrit dưới 1%. Dân cư trong vùng dùng
nước giếng nông (2-3 m, đôi khi tới 8 m).
Việc khai đào các mỏ nguyên sinh đã phơi lộ các
quặng sulfur, làm gia tăng quá trình phong hoá, bào mòn và tạo ra một khối lượng
lớn đất đá thải có lẫn arsenopyrit ở gần khu mỏ. Tại các nhà máy tuyển quặng, arsenopyrit
được tách ra khỏi các khoáng vật có ích và phơi ra không khí.
Arsenopyrit bị rửa lũa, dẫn đến hậu quả là một lượng
lớn As được đưa vào môi trường xung quanh.
Arsenopyrit là khoáng vật sulfur có As và Fe: FeAsS
khi phơi lộ ra không khí ẩm, nó nhanh chóng bị oxy hoá tạo thành hợp chất
arsenat:
4FeAsS + 13O2 + 6H2O ® 4 FeSO4 + 4H3SO4
Arsenat trong môi trường tự nhiên dễ dàng chuyển
hoá thành H2AsO4-2 và HAsO3- di chuyển
trong nước, hấp thụ vào trong đất, trong bùn và thực vật.
Sự ô nhiễm As ở Ronphiboon xảy ra do nước từ dãy
núi Ron Na - Suang Chan chảy đến, ngấm vào lòng đất làm ô nhiễm nước dưới đất. Đất
có chứa nhiều chất hữu cơ và sắt có khả năng hấp phụ arsen tốt nên cũng bị ô
nhiễm nặng.
Ở Việt
Đặc điểm địa chất của vùng được điều tra là hai
bản Hin Hụ và Bang Mon nằm trong vùng có hàm lượng arsen cao trong trong quặng gốc,
vỏ phong hoá và trong nước suối. Môi trường sống của họ giống như được minh hoạ
ở Hình 1. Dân tại bản Hin Hụ và Bang Mon có hàm lượng arsen trong tóc và móng
tay tăng cao (Bảng 5).
Số liệu điều tra cho thấy dân Bản Phúng, Nà Hin
có hàm lượng arsen trong nước tiểu thấp hơn tiêu chuẩn cho phép (50 mg/l), còn ở bản Hin Hụ và Bang Mon đều cao hơn tiêu chuẩn cho phép.
Hàm lượng trung bình của arsen trong tóc, móng chân,
móng tay của cư dân sống ở hai bản Hin Hụ và Bang Mon cao hơn so với cư dân sống
ở hai bản Bản Phúng và Nà Hin.
Bảng 5. Kết quả phân tích
hàm lượng arsen trong tóc, móng tay và nước tiểu
của dân 4 bản đã điều tra [4].
Bản |
Hàm lượng arsen trong dân các bản được điều tra |
||
Trong nước tiểu (mg/l) |
Trong tóc (mg/kg) |
Trong móng (mg/kg) |
|
Bản Phúng |
37,09
± 24,53 |
1,64
± 0,31 |
1,64
± 0,36 |
Nà Hin |
42,17
± 39,08 |
1,65
± 0,37 |
1,46
± 0,22 |
Bang Mon |
89,26
± 60,62 |
1,73
± 0,33 |
1,61
± 0,21 |
Hin Hụ |
102,24
± 84,88 |
1,85
± 0,31 |
1,73
± 0,17 |
Từ các kết quả nêu trên kết hợp với 31 triệu chứng
sớm liên quan tới nhiễm độc arsen mãn tính, đã xác định cư dân sống ở các bản Hin
Hụ và Bang Mon có biểu hiện nhiễm độc arsen mãn tính. Ngoài ra đã xác định được
những yếu tố lẫn lộn (confounding factor)
về vệ sinh môi trường và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ góp phần làm tăng hôi chứng
nhiễm độc arsen mãn tính ở hai bản Hin Hụ và Bang Mon, qua đó làm tăng trội
theo một số bệnh như sốt rét, tiêu hoá, tâm thần, bệnh xương khớp, tim mạch, phổi.
V. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA NHẰM GIẢM THIỂU ẢNH HƯỞNG CỦA ARSEN TRONG MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN TỚI CON NGƯỜI
1. Đối với các mỏ quặng, đới biến đổi nhiệt dịch
được phát hiện, cần phân tích hàm lượng arsen trong khu mỏ, đới biến đổi nhiệt dịch
nhằm biết được mức cũng như quy mô phân bố dị thường arsen trong khu đó, để từ
đó đề ra biện pháp phòng ngừa.
2. Đối với các khu mỏ, đới biến đổi nhiệt dịch có
hàm lượng arsen cao đã được khoanh định, cần nghiên cứu độ sâu lộ quặng, đới biến
đổi nhiệt dịch, phân tích hàm lượng arsen trong đới phong hoá, trong đất và nước
bề mặt ở các khe suối cũng như trong nước dưới đất ở khu vực, từ đó đề ra biện
pháp phòng ngừa (cần lấy mẫu phân tích arsen trong nước vào mùa khô mới dễ phát
hiện được sự ô nhiễm, vì nước ta thuộc khu hệ nhiệt đới ẩm có hai mùa rõ rệt:
mùa mưa và mùa khô; nếu lấy mẫu nước phân tích arsen vào mùa mưa thì hàm lượng
arsen bị pha loãng rất nhiều, khó phát hiện được sự ô nhiễm arsen trong các nguồn
nước) .
3. Đối với các khu mỏ nhiệt dịch, đới biến đổi nhiệt
dịch có hàm lượng arsen cao, đã khoanh định được diện tích đất, nước có hàm lượng
arsen cao, thì tốt nhất không thả vật nuôi, cây trồng trong diện tích đất bị ô
nhiễm, không sử dụng các nguồn nước đã bị ô nhiễm arsen nguồn tự nhiên. Nếu khu
vực đó dân cư đông (có bản, làng) thì cần tìm nguồn nước không bị ô nhiễm dẫn về
để sử dụng. Cần tránh xây dựng nhà ở trên
những nơi quặng (hoặc đới biến đổi nhiệt dịch) có hàm lượng arsen cao, lộ gần
hoặc ngay trên bề mặt (xem ví dụ Hình 1).
4. Nếu cư dân trong vùng bị ô nhiễm arsen nguồn
tự nhiên không có nguồn nước sạch từ xa dẫn về, thì cần sử dụng nguồn nước sau:
- Sử dụng nguồn nước có lưu lượng lớn như nước sông,
suối lớn (vì các sông, suối lớn khả năng ô nhiễm ít hơn, cũng cần phân tích hàm
lượng arsen trước khi sử dụng).
- Dẫn nước bề mặt, nước dưới đất qua dàn phun và
lọc qua bể lọc gồm sỏi, cát thông thường, vì khi qua dàn phun, nguồn nước nhiều
sắt sẽ loại trừ được arsen, nguyên tắc loại trừ arsen như sau:
* Fe (II) + oxy không khí ® Fe (III)
* Fe (III) + As (III) ® Fe (II) + As(V)
* Fe (II) + oxy không khí ® Fe (III)
* Fe(III) + As (V) ® FeAsO4 ¯
FeAsO4 kết tủa cùng Fe (OH)3
và được lọc bỏ qua lớp cát sỏi.
Nếu nguồn nước thiếu Fe+2 có thể lắp
bộ lọc arsen [13].
5. Các khu khai thác quặng nhiệt dịch (thiếc, chì-kẽm,
vàng, antimon, ...) có hàm lượng arsen cao cần quy hoạch khu đá thải, không để ảnh
hưởng tới các nguồn nước trên mặt và dưới đất. Tốt nhất là các chất thải được
quy hoạch vào các thung lũng kín.
VĂN LIỆU
1. Dang Van Can, 1992. Arsenic in geological
formations in Ma river upstream region (Sơn La province) and its effect to
environment. Reg. Conf. Geol. Environment, Hà Nội.
2. Đặng Văn Can, Đào Ngọc Phong, 2000. Đánh giá tác động của arsen
tới môi sinh và sực khoẻ con người ở các vùng mỏ nhiệt dịch có hàm lượng arsen
cao. Địa chất và Khoáng sản, VII : 199-204. Viện ĐC&KS, Hà Nội.
3. Đặng Văn Can, 2000. Nhận định bước đầu về quy luật phân bố, di chuyển
và tích luỹ arsen ở vùng mỏ nhiệt dịch có hàm lượng arsen cao. Hội thảo Quốc
tế Ô nhiễm arsen: Hiện trạng, tác động sức khoẻ con người và các giải pháp phòng
ngừa. Hà Nội.
4. Dao Ngoc Phong, Dang Van Can et al., 1996. Impact of natural arsenic polluted environment on human
health at somes sites in the district of a
5. Đào Ngọc Phong, Đặng Văn Can, Sa Như Hoà, Đỗ Thị Hoà và nnk, 2000. Bước đầu đánh giá sự phối hợp tác động giữa môi trường sống bị nhiễm độc
arsen tự nhiên với các yếu tố y tế, văn hoá, xã hội và kinh tế tới sức khoẻ của
dân sống ở một vùng thuộc huyện Sông Mã, Sơn La. Hội thảo Quốc tế Ô nhiễm
arsen: Hiện trạng, tác động sức khoẻ con người và các giải pháp phòng ngừa. Hà
Nội.
6. Đỗ Đình Hiển, Hoàng Thái Sơn, Nguyễn Văn Nhân, 2000. Điểm quặng hoá thiếc-arsen vùng Phú Lâm, Đội Cấn, Tuyên Quang. Địa chất
và Khoáng sản, VII : 151-158. Viện ĐC&KS, Hà Nội.
7. Đỗ Trọng Sự, 2000. Hiện trạng ô nhiễm nguồn nước bởi arsen ở Hà Nội và một số vùng phụ cận.
Hội thảo Quốc tế Ô nhiễm arsen: Hiện trạng, tác động sức khoẻ con người và các
giải pháp phòng ngừa. Hà Nội.
8. Hồ Vương Bính, Đặng Văn Can, Phạm Văn Thanh, Bùi Hữu Việt, Phạm Hùng
Thanh, 2000. Ô nhiễm arsen và sức khoẻ cộng đồng. Hội
thảo Quốc tế Ô nhiễm arsen: Hiện trạng, tác động sức khoẻ con người và các giải
pháp phòng ngừa. Hà Nội.
9. Nguyễn Kinh Quốc, Nguyễn Quỳnh Anh, 2000. Đánh giá sơ bộ về độ chứa và dự báo khoanh vùng dị thường arsen liên quan
đến các thành tạo địa chất ở Việt
10. Nickson R.T. et al., 2000. Mechanism of arsenic
release to ground water in
11. Ramnarong Vachi et al., 1994. Groundwater
contamination by arsenic from mining industry in
12. Trần Đình Hoan, 2000. Asen ở Bó Sinh và giải
pháp khắc phục. Hội thảo Quốc tế Ô nhiễm arsen: Hiện trạng, tác động sức khoẻ
con người và các giải pháp phòng ngừa. Hà Nội.
13. Trần Đình Hoan, 2000. Vài giải pháp phòng chống
ô nhiễm arsen đơn giản, chi phí thấp. Hội thảo Quốc tế Ô nhiễm arsen: Hiện trạng,
tác động sức khoẻ con người và các giải pháp phòng ngừa. Hà Nội.