NHỮNG VẤN ĐỀ
BỆNH HỌC LIÊN QUAN TỚI CÁC HÓA CHẤT GÂY RỐI LOẠN NỘI TIẾT
TRẦN TÂN VĂN
Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Thanh Xuân,
Hà Nội
Tóm tắt: Trên cơ sở tổng hợp một số tài liệu
trong nước và quốc tế, bài viết giới thiệu với độc giả Việt Nam một bức tranh
tương đối tổng quát về các hóa chất gây rối loạn nội tiết (Endocrine disrupting
chemicals - EDCs), bắt đầu bằng việc giới thiệu khái quát về hệ thống nội tiết,
định nghĩa các chất EDCs, phương thức tác động của các chất EDCs, một số bằng
chứng về tác động của chúng đến các hình thức phơi nhiễm các chất EDCs cũng như
những vấn đề tồn tại liên quan đến việc kết luận một cách chắc chắn về tác hại
của chúng. Ở phần tiếp theo, bài viết giới thiệu về những nhận thức hiện nay về
các chất EDCs ở Việt
I. GIỚI THIỆU
Trong quá trình tham khảo các tài liệu về địa chất
y học, chúng tôi gặp một vấn đề hoàn toàn mới lạ, nhưng lại là một trong những đối
tượng nghiên cứu của chuyên ngành khoa học này. Đó là việc tìm hiểu hành vi và
chu trình lưu chuyển trong môi trường của các hóa chất gây rối loạn nội tiết (Endocrine
disrupting chemicals - EDCs). Tài liệu nước ngoài khá nhiều, chẳng hạn như các
công trình của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Châu Âu năm 1996 [2], Báo cáo của Cơ
quan Bảo vệ Môi trường Anh năm 2000 [9] về vai trò của các chất EDCs đối với
một số loại bệnh liên quan đến hoóc môn. Song khi thử tìm kiếm các công trình
nghiên cứu trong nước trên mạng internet thì thấy chưa nhiều lắm và phần lớn
mới đề cập đến các hóa chất ảnh hưởng tới vệ sinh an toàn thực phẩm. Chúng tôi
chỉ tìm được một số bài viết của GS.TSKH.
II. KHÁI QUÁT VỀ CÁC HÓA CHẤT GÂY RỐI LOẠN NỘI TIẾT
1. Hệ thống nội tiết
Hệ
thống nội tiết là một mạng lưới phức tạp, gồm tập hợp các cơ quan nội tiết (các
tuyến) và hocmon do chúng sản sinh ra nhằm điều tiết quá trình sinh trưởng, cũng
như nhiều hoạt động/hành vi của các loài động vật, kể cả con người. Các cơ quan
nội tiết cung cấp một lượng hocmon đã được đong đếm kỹ lưỡng vào hệ thống tuần
hoàn, theo máu đi đến những bộ phận khác nhau của cơ thể để kiểm soát và điều
tiết các chức năng. Một số hocmon còn có thể do một số bộ phận khác của cơ thể
(không phải tuyến), như dạ dày, ruột hoặc các tế bào thần kinh tiết ra, và chúng
chỉ hoạt động ở gần nơi chúng được sản sinh ra.
Theo định nghĩa của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Anh,
EDCs là những hợp chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi xâm nhập vào cơ
thể sống có thể tác động đến các tuyến nội tiết và hocmon hoặc đến những nơi
hocmon hoạt động - các cơ quan nhận cảm, làm rối loạn hoạt động của chúng.
Một
số hóa chất đã được con người biết đến có khả năng gây rối loạn nội tiết là
diethylstilbesterol (DES), dioxin, polychlorinated biphenyls (PCBs), dichloro-diphenyl-trichloroethane
(DDT)... Nhiều hóa chất khác, đặc biệt là các loại thuốc trừ sâu, chất dẻo…
đang được sử dụng cũng bị nghi ngờ là EDCs.
Các chất EDCs có thể hình
thành như một sản phẩm phụ không mong muốn của công nghiệp hóa học, hoặc trong quá
trình thiêu hủy các chất dẻo. Một số nghiên cứu cho thấy EDCs còn có thể thoát
ra từ các loại chất dẻo, kể cả chất dẻo y tế. Nhiều chất EDCs rất bền trong môi
trường và có thể tích tụ lại trong mỡ, vì thế ăn các loại mỡ động vật hoặc các
loại cá nuôi trong nước bẩn chính là con đường nhiễm EDCs dễ nhất.
Việc sản xuất và sử dụng EDCs trên thế giới chủ
yếu bắt đầu vào khoảng giữa những năm 1930-1950. Nhưng đến cuối những năm 1970 thì
một số chất, chẳng hạn như dioxin, PCBs đã bị cấm sản xuất và sử dụng.
3. Phương thức tác động của EDCs
Các
chất EDCs có thể tác động theo hai cách:
a.
Trực tiếp thay đổi sự trao đổi/chuyển hóa hocmon bằng cách thay đổi chính quá trình
sản sinh ra hocmon thông qua các cơ quan nhận cảm hoặc các yếu tố sinh trưởng
khác;
b.
Trực tiếp phá hủy cấu trúc hoặc hoạt động của các DNA.
Cụ thể, EDCs có thể tương
tác với hệ thống nội tiết và qua đó làm rối loạn hệ thống này dưới một số phương
thức sau:
a. Chúng có thể tác động lên
cơ quan nhận cảm giống như một hocmon tự nhiên, khiến cho cơ quan này phản ứng
y như thể dưới tác động của hocmon tự nhiên hoặc không phản ứng như bình thường
được;
b. Chúng có thể gây rối loạn
cơ chế tổng hợp hocmon tự nhiên hoặc kiểm soát các cơ quan nhận cảm, thí dụ như
làm tăng/giảm đột biến khả năng sản sinh ra hocmon của các tuyến nội tiết, thay
đổi chu trình di chuyển của hocmon trong cơ thể hoặc gia tăng tốc độ chuyển hóa
của hocmon và qua đó giảm tác động của chúng;
c. EDCs hoặc biến thể của
chúng có thể trực tiếp biến đổi hoặc phá hủy DNA, biến đổi chu kỳ tế bào, tác động
đến quá trình phục hồi hoặc làm rối loạn kết nối liên bào, v.v..
4. Một số bằng chứng về tác động của EDCs
Sự có mặt của EDCs trong môi
trường khiến người ta lo lắng vì:
a. Chúng, hoặc các biến thể
của chúng, có phạm vi di chuyển rất rộng. Một số EDCs phân rã khá nhanh trong
môi trường, nhưng nhiều chất khác lại khá bền vững và chính chúng là những chất
gây nhiều quan ngại nhất. Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về sự phân bố rộng
khắp và bền vững của EDCs, chẳng hạn, người ta đã tìm thấy chlor hữu cơ, được
cho là có nguồn gốc từ một bãi chôn lấp rác thải độc hại ở Hoa Kỳ, với hàm
lượng đáng kể trong một số loài động vật như gấu ở Bắc cực;
b. Chúng tích tụ dần theo
con đường sinh học trong chuỗi thức ăn với nồng độ đáng kể trong các sản phẩm động
vật như mỡ, cá và sữa. Các loài động vật thủy sinh dễ chịu tác động nhất, đặc
biệt là các loài ăn thịt, vì chúng nằm ở trên cùng của “chuỗi thức ăn”, nơi các
hóa chất bền vững tích tụ lại theo thời gian;
c. Đã có nhiều bằng chứng
cho thấy EDCs tác động tiêu cực đến khả năng sinh sản, tăng trưởng và phát triển
của một số loài động vật hoang dã. Các nhà khoa học cho rằng EDCs có khả năng
gây ra những tác hại như:
- Suy giảm khả năng sinh sản,
gia tăng các bệnh về đường sinh sản, dậy thì sớm ở các cá thể cái;
- Giảm số lượng sinh các cá
thể đực, dị dạng cơ quan sinh sản ở các cá thể đực;
- Một số EDCs có thể kìm hãm
sự phát triển của hệ thống thần kinh và hệ thống miễn dịch.
Có thể nêu một vài thí dụ
về tác động của các chất EDCs đối với hệ động vật hoang dã như:
- Vùng Hồ Lớn (Great Lakes,
Hoa Kỳ) đang bị ô nhiễm bởi PCB và nhiều hóa chất khác, nên các loài cá sống ở
đấy bị nhiều bệnh liên quan đến hệ sinh sản. Các loài chim ăn cá ở vùng này
cũng gặp những biểu hiện bệnh tương tự;
- Số lượng hải cẩu ở biển
Baltic hoặc cá sấu sống trong hồ nước bị ô nhiễm ngày càng sút giảm;
- Vỏ trứng các loài chim mồi
bị mỏng dần;
- Cá thể cái của một số loài
ốc biển xuất hiện các cơ quan sinh dục đực;
- Cá nuôi trong môi trường
chứa vài phần triệu (mg/l) chất gây động dục tự nhiên hoặc tổng hợp có triệu
chứng chuyển giới tính [7].
Những tác động lên hải cẩu,
cá sấu và chim đa phần có lẽ là do các chất EDCs như PCBs, dioxin, DDT/DDE và
một số loại thuốc trừ sâu khác có chứa chlor. Tác động lên cá có lẽ là do các
chất gây động dục (estrogen) có trong nước cống khi đổ thải ra sông. Các tác
động lên ốc biển là do sử dụng chất TBT (tributylin) trong sơn chống hôi trên
các tầu, thuyền.
Tóm lại, bằng chứng về những
tác động kể trên đối với hệ động vật hoang dã hầu hết có thể quy cho các chất
EDCs và hầu hết chúng được quan sát ở những vùng bị ô nhiễm nặng. Chỉ có điều
là trong đa số các trường hợp, kể cả khi đã xác định được mối quan hệ giữa nhiễm
độc EDCs và các hậu quả, người ta vẫn chưa biết cơ chế tác động của EDCs lên cơ
thể sống như thế nào.
a. Đối với con người, một
số kết quả nghiên cứu đã cho thấy có tỷ lệ gia tăng một số loại bệnh sinh sản và
ung thư ở người có thể do rối loạn nội tiết gây ra, chẳng hạn:
- Vào những năm 1950-1960,
nhiều phụ nữ được kê thuốc diethylstilbestrol (DES) để tránh sẩy thai, nhưng
chẳng những nó không giúp cải thiện được tình trạng này mà còn gây ra nhiều vấn
đề sức khỏe cho con cái những người phụ nữ này. Năm 1971, các bác sĩ bắt đầu
báo động về tỷ lệ tăng cao ở các thiếu nữ một số bệnh như ung thư tử cung, dị
dạng các bộ phận bài tiết và sinh dục, cũng như rối loạn hệ thống miễn dịch.
Quá trình rà soát lại lịch sử nhiễm độc của các bệnh nhân đã cho phép kết luận
về việc sử dụng chất DES của những người mẹ;
- Ung thư vú, tiền liệt tuyến,
buồng trứng, tinh hoàn, v.v. – những bệnh phụ thuộc hocmon – là những bệnh phổ
biến nhất ở các nước phát triển như châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Australia. Kể từ
khi các trường hợp mắc bệnh ung thư được phát hiện (đầu những năm 1960), người
ta nhận thấy, số ca bị ung thư vú, tiền liệt tuyến hoặc tinh hoàn đã tăng lên
đáng kể. Chẳng hạn ở Mỹ hoặc các nước châu Âu, nguy cơ bị ung thư vú và tiền
liệt tuyến ở nam và nữ thế hệ 10X cao gấp hai lần so với thế hệ cha mẹ họ.
Nhiều bằng chứng cho thấy các yếu tố môi trường có thể gây ra những bệnh kể
trên. Chẳng hạn những công nhân thường tiếp xúc với các chất dẻo, dung môi hữu
cơ, thuốc trừ sâu và các loại hóa chất độc hại khác có nguy cơ bị ung thư cao.
Các thức ăn như sữa hoặc protein động vật có thể trực tiếp tác động đến quá
trình chuyển hóa hocmon. Lindane, DDT và chlor hữu cơ trong sữa bị nghi là có
liên quan đến số ca ung thư vú gia tăng ở
- Đã có nhiều bằng chứng về
mối liên quan giữa các hợp chất gây động dục trong môi trường với các bệnh ung
thư phụ thuộc hocmon. Theo Báo cáo của Hội Hoàng gia Anh năm 2000 [trong 7],
một trong số các hình thức nhiễm độc của con người đối với các chất gây động
dục tự nhiên trong nửa thế kỷ qua ở Anh là mức tiêu thụ gia tăng các sản phẩm
sữa bò kết hợp với những thay đổi trong thực tiễn sản xuất sữa bò, trong đó chu
kỳ vắt sữa được thực hiện liên tục ngay cả đối với những bò cái đang trong thời
kỳ mang thai (khi đó hàm lượng các chất gây động dục trong sữa tăng cao). Ngoài
ra, một số nghiên cứu còn cho thấy sự có mặt của một chất kích thích tăng
trưởng giống như insulin (insuline-like growth factor-1, IGF-1) trong sữa cũng
có liên quan chặt chẽ với cả hai loại bệnh ung thư vú và tiền liệt tuyến
[Outwater et al., 1997, trong 7]. Chẳng hạn một nghiên cứu cho thấy là phụ nữ
bị nhiễm IGF-1 ở nồng độ cao từ một vài năm trước có nguy cơ bị ung thư vú cao
gấp 7 lần so với những người chịu nồng độ IGF-1 thấp hơn. Đối với ung thư vú,
mối quan ngại chủ yếu là các chất gây động dục, có thể tác động đến quá trình
chuyển hóa hocmon hoặc phá hủy DNA thông qua những hình thức khác. Gần đây, một
số thí nghiệm nuôi cấy tế bào ung thư vú bị biến đổi gien (phụ thuộc vào chất
gây động dục) (MCF-7) đã cho thấy một số hóa chất như bisphenol-A, PCB, DDT và
kể cả estradiol (hocmon buồng trứng) có thể kích thích tế bào tăng trưởng tùy
thuộc vào nồng độ của chúng.
b. Nhiễm EDCs có thể gây hậu
quả ở mức độ khác nhau tùy thuộc vào các giai đoạn của vòng đời hoặc thậm chí
theo mùa. Chẳng hạn nhiễm EDCs trong giai đoạn phát triển ban đầu (trong dạ con,
khi mới đẻ v.v.) có thể gây ra những hậu quả suốt đời. Trẻ sơ sinh, trẻ em đang
phát triển cơ quan sinh dục dễ bị nhiễm EDCs hơn cả vì những chất này tác động
đến sự phát triển của những bộ phận quan trọng nhất của cơ thể và hệ thống sản
sinh hocmon. Và cũng tương tự như đối với DES, sự nhiễm độc của bố mẹ có thể
gây ra những hậu quả đáng tiếc đối với con cái họ, thậm chí hàng chục năm sau.
Ngược lại, nhiễm EDCs trong giai đoạn trưởng thành ít để lại hậu quả rõ rệt.
5. Một số hình thức nhiễm EDCs
Đa phần các tài liệu về phơi
nhiễm EDCs đã nhấn mạnh đến “các chất ô nhiễm hữu cơ bền vững” có trong hồ ao,
sông suối và nước biển. Con người có thể bị phơi nhiễm EDCs theo đường tiêu hóa
do thức ăn, nước uống bị ô nhiễm, theo đường hô hấp do không khí bị ô nhiễm (đặc
biệt khi thiêu đốt rác thải). Chẳng hạn họ có thể bị phơi nhiễm đối với một số
chất gây động dục tự nhiên có trong một số loại thức ăn nguồn gốc thực vật như
đậu nành. Họ cũng có thể bị phơi nhiễm khi tiếp xúc với EDCs trong các hoạt
động sản xuất công nghiệp (các loại thuốc tẩy, giặt, cao su, chất dẻo v.v.),
nông nghiệp (các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ, thuốc bảo vệ thực vật, bảo quản
rau quả v.v.) cũng như trong sinh hoạt hàng ngày (các loại thuốc phun, xịt diệt
ruồi muỗi, mối mọt, diệt nấm mốc v.v.).
6. Một số vấn đề tồn tại liên quan đến EDCs
Những điều trình bày trên
cho thấy việc nghiên cứu EDCs đến nay đã đạt được những kết quả ban đầu đáng khích
lệ, tuy nhiên, ngay cả đối với khoa học thế giới cũng còn nhiều điều chưa được
làm sáng tỏ, chẳng hạn như:
a. Chưa có bằng chứng thực
sự rõ ràng về nguy cơ mắc các bệnh ung thư vú, ung thư tử cung, tinh hoàn, tiền
liệt tuyến hoặc tuyến giáp v.v. do nhiễm các chất EDCs trong môi trường. Chỉ có
điều khá hiển nhiên là nhiễm EDCs có hại cho sức khỏe con người và có thể là
nguyên nhân gia tăng một số loại bệnh;
b. Cũng chưa có bằng chứng
thật sự rõ ràng về nguy cơ của các chất EDCs ở nồng độ thấp đối với sức khỏe
con người. Một số nhà khoa học cho rằng các phưong pháp thí nghiệm truyền thống
chưa đủ độ nhạy cần thiết để ghi nhận những hậu quả ở nồng độ thấp. Đây là
những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu.
III. NHẬN THỨC VỀ EDCs Ở VIỆT
Ở
Việt
chúng chưa được nghiên cứu nhiều và cũng chưa được công
bố một cách đúng mức, ngoại trừ một số trường hợp điển hình được công luận quan
tâm. Chẳng hạn như các trường hợp dùng focmon để làm dai bánh phở, dùng phèn
chua để làm giòn giò chả và giữ bún lâu thiu. Cũng có tin là trên thị trường
lưu hành loại nước tương chứa độc tố MCPD, và gần đây nhất là chất kích thích
rau tăng trưởng nhanh.
GS.TSKH.
Chu Phạm Ngọc Sơn đã giới thiệu một số nhóm hóa chất, phụ gia có trong thực phẩm
hoặc được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp có thể có hại cho sức khỏe con
người [1] trình bày trong bảng dưới đây:
TT |
Nhóm
hóa chất |
Thí dụ |
1 |
Nhóm các hóa chất không được phép sử dụng |
Focmon, hàn the, chất tạo ngọt tổng hợp natri cyclamat, màu công nghiệp,
đặc biệt phẩm Sudan I, II, III, IV, Para Red, Rhodamin B, Orange II v.v.
trong thực phẩm |
Clenbuterol, salbutamol làm giảm lớp mỡ dưới da, dexamethason và các dẫn
xuất có tác dụng giữ nước, tăng trọng giả tạo trong chăn nuôi gia súc |
||
Chloramphenicol, nitrofuran, fluoroquinolon, malachit xanh, leuco-malachit
xanh, urê trong chăn nuôi, chế biến thủy sản |
||
2 |
Hóa chất được phép sử dụng trong chế biến thực phẩm, nhưng dùng quá hàm
lượng cho phép |
Các chất tạo ngọt tổng hợp saccarin, aspartam v.v., chất bảo quản chống
mốc (benzoic axit và các muối benzoat, axit sorbic và các muối sorbat, chất
chống oxy hóa (BHT, BHA, sulfur, v.v.) |
3 |
Chất độc gốc tự nhiên |
Tetrodotoxin trong một số thủy sản như cá nóc, mực xanh v.v., glucozit
cyanogen trong một số thực phẩm như măng, sắn, độc tố sinh học biển gây tiêu chảy
DSP, mất trí nhớ ASP, liệt cơ PSP trong Thân mềm Hai mảnh vỏ |
4 |
Chất độc sinh ra trong quá trình bảo quản không tốt |
Aflatoxin trong các loại hạt, như ngô, lạc, hạt dẻ (pistachio) |
Ochratoxin trong cà phê |
||
Histamin trong hải sản |
||
5 |
Chất độc thôi ra từ các bao bì ngấm vào thức ăn |
Phtalat hóa dẻo |
6 |
Chất độc sinh ra trong quá trình chế biến, nấu nướng |
3-MCPD và 1,3-DCP trong
nước tương, acrylamid trong chiên, xào, nướng3-MCPD và 1,3-DCP trong nước tương,
acrylamid trong chiên, xào, nướng |
7 |
Chất độc sinh ra từ công thức pha chế |
Benzen sinh ra từ các loại
nước ngọt, nước tăng lực có chứa đồng thời vitamin C và muối benzoat |
8 |
Chất độc gốc môi trường có trên rau quả, thực phẩm vượt quá hàm lượng
cho phép |
Kim loại nặng, PCBs,
dioxin |
GS.TSKH. Lê Huy Bá phổ biến về một số chất độc môi
trường có nguy cơ gây bệnh ung thư như sau [4]:
TT |
Chất
độc |
Đặc điểm |
1 |
Dioxin |
Loại chất cực độc có
trong hầu hết các môi trường thành phần, ít tan trong nước, tồn tại nhiều và
lâu ở đất, đá trầm tích (có khi đến 30-40 năm), xâm nhiễm qua đường tiêu hóa,
vào thực vật, rau quả, tôm cá và cuối cùng vào con người. Cũng có thể ngộ độc
trực tiếp do hô hấp, hay qua da do tiếp xúc, hay qua nước uống. Liều lượng
cao có thể gây độc cấp tính, liều lượng thấp gây độc mãn tính, nhất là gây
ung thư |
2 |
Các chất độc từ thuốc
trừ sâu và phân hóa học, có trong, và qua chế biến, thực phẩm |
Tồn dư trong môi trường
đất, nước rồi tích lũy vào sản phẩm nông nghiệp như lúa, khoai, rau quả. Cũng
có mặt trong thực phẩm với vai trò là chất bảo quản, diệt nấm mốc hoặc là tạp
chất sinh ra trong qui trình nuôi trồng, sản xuất hoặc chế biến |
3 |
Chất độc focmon, hàn the |
Loại chất hữu cơ rất
độc, bị lạm dụng làm bánh phở, hủ tiếu, bún, bánh ướt để bánh dai và lâu
thiu. Làm biến dị các nhiễm sắc thể, gây các bệnh như ung thư xoang mũi,
họng, phổi, ung thư đường tiêu hóa. Hàn the khi vào cơ thể khoảng 20% sẽ tích
tụ vĩnh viễn và gây tổn thương các tế bào gan, teo tinh hoàn và là tác nhân
gây ung thư không kém focmon |
4 |
Chất độc 3-MCPD (3-cloro-1,2-propandiol) và
1,3-DCP (1,3-dicloro-2-propanol) |
Có trong nước tương do quy trình công nghệ không
hợp lý. Được tạo ra từ quá trình thủy phân chất béo (váng dầu, khô dầu công
nghiệp) bằng axit chlohydric HCl. Có khả năng biến đổi gen, và đặc biệt, khi
hàm lượng 3-MCPD cao có thể tạo nên chất độc mạnh hơn là 1,3-DCP, gây ung thư
thận, biểu mô miệng, lưỡi trên cơ thể động vật và người |
5 |
Chất độc gây ung thư từ
nấm mốc |
Các loại thực phẩm như
lạc, hạt điều bị mốc, khi đưa vào cơ thể một lượng lớn có thể gây ung thư |
6 |
Chất độc gây ung thư từ
rượu |
Khi vào cơ thể, rượu
được chuyển hóa sinh ra acetaldehyd (Aa), là một carcinogen trong các mô động
vật, có thể gây biến dị vi khuẩn và các tế bào động vật có vú. Người nghiện
rượu mãn tính, nồng độ Aa trong máu tăng cao, có thể gây ung thư gan và các
bộ phận khác trong cơ thể |
7 |
Chất độc gây ung thư từ
thuốc lá |
Khói thuốc lá có thành
phần rất phức tạp, với hơn 4.000 hợp chất, trong đó 200 loại có hại cho sức
khỏe, đặc biệt có tới 40 chất có thể gây ung thư cho người. Nguy hại không
chỉ cho người hút mà còn nguy hại hơn cho người khác, nhất là trẻ em |
Phân
loại dưới đây của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Anh (2000) và Miller and Sharpe (1998)
[trong 7] cho ta một cái nhìn rõ hơn, tương đối chuyên môn hơn, về bản chất,
nguồn gốc và đường di chuyển của các chất EDCs.
Các chất EDCs |
Nguồn hoặc đường di chuyển |
1. Tự nhiên Nhóm STEROIDS - 17b oestradiol
(hocmon buồng trứng) - Oestron (hocmon động dục) |
Nước thải, nước mặt chảy tràn từ các diện tích canh
tác nông nghiệp |
2. Tổng hợp a. Nhóm STEROIDS -
Ethinyl oestradiol (chất tránh thụ thai,
contraceptives) |
Nước thải |
b. Nhóm ALKYLPHENOLS -
Nonylphenol -
Nonylphenol-ethoxylat -
Octylphenol -
Octylphenol-ethoxylat |
Các chất có hoạt tính bề mặt – một số loại chất tẩy,
bột giặt, chất dẻo. Có thể xâm nhập vào môi trường qua hệ thống nước thải. |
c. Nhóm thuốc trừ sâu, diệt cỏ
TRIAZIN HERBICID -
Atrazin -
Simazin |
Atrazin là một trong những loại
thuốc trừ sâu, diệt cỏ sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới, chủ yếu trong
canh tác ngô. Có thể khuếch tán vào hệ thống nước ngầm. Nhiều nước phát triển
đã cấm sử dụng cả hai loại thuốc này trong các hoạt động phi nông nghiệp. |
d. Nhóm phosphat hữu cơ
(ORGANOPHOSPHAT) -
Dichlorvos -
Dimethoat -
Demeton-S-methyl |
Các hóa phẩm dùng trong sinh hoạt
gia đình, các loại thuốc trừ sâu, v.v. có thể xâm nhập vào môi trường dưới
hình thức khuếch tán vào nước ngầm, nhất là nước chảy từ các diện tích sản
xuất nông nghiệp, phun thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp, di chuyển
trong khí quyển v.v. |
e. Nhóm các dung môi hữu cơ
(ORGANIC SOLVENTS) -
Trichloroethylen -
Perchloroethylene -
Benzene |
Dùng trong giặt tẩy, giặt khô, lót ống nước, sơn vẽ,
sơn sửa nhà cửa, công nghiệp điện tử v.v. |
h. Nhóm chlor hữu cơ (ORGANOCHLORINES) -
Endosulfan -
Trifluralin -
Permethrin - Lindan - DDT, aldrin, dieldrin |
- Các hóa phẩm dùng trong sinh
hoạt gia đình, các loại thuốc trừ sâu v.v. Có thể xâm nhập vào môi trường dưới
hình thức khuếch tán vào nước ngầm, nhất là nước chảy từ các diện tích sản
xuất nông nghiệp, phun thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp, di chuyển
trong khí quyển v.v. - Trước kia được dùng như một loại thuốc trừ sâu,
kể cả phun cho cừu và các loại gia súc khác - Còn được sử dụng ở một số nước, có thể tích tụ trong
hàng hóa nhập khẩu. Ở các nước phát triển nguồn chủ yếu là những khu vực
trước kia từng bị ô nhiễm. |
f. Nhóm các hợp chất khác -
Polychlorinat biphenyl (PCBs) -
Tributyltin - Dioxin và furan |
- Thiêu đốt rác thải, nhất là các
loại biến thế điện bị thải. Cũng là sản phẩm phụ của một số hoạt động công
nghiệp. - Sơn chống hôi trên các tầu biển lớn, chất bảo quản
gỗ, xâm nhập vào môi trường dưới dạng khuếch tán. - Các nguồn khuếch tán, kể cả các ngành công nghiệp
chế/luyện kim, thiêu đốt rác thải, nhất là rác thải y tế. |
V. MỘT SỐ KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
TIẾP THEO
Có
nhiều bằng chứng cho thấy hệ động vật hoang dã bị tác động mạnh bởi EDCs, nhất là
các loài thủy sinh ở những khu vực bị ô nhiễm cao; có một số bằng chứng về tác
động của các chất EDCs ở nồng độ cao đối với con người. Tuy nhiên cũng chưa rõ
hậu quả của quá trình phơi nhiễm lâu dài đối với EDCs ở nồng độ thấp; hiểu biết
của con người về tác động của EDCs là chưa đầy đủ, cần được nghiên cứu thêm
nhiều.
Đáng
tiếc là cho đến nay, sự tích tụ và phân bố của EDCs trong môi trường mới được nghiên
cứu ở mức độ rất sơ lược. Ngay cả các khu vực có nguy cơ cao cũng còn chưa được
khoanh định ở nhiều nước. Cần có thêm rất nhiều số liệu địa hóa để đo vẽ,
khoanh vùng và quan trắc sự phân bố và hành vi của EDCs trong môi trường, xây
dựng mới các mô hình lưu chuyển toàn cầu để hiểu rõ thêm về mối quan hệ nguồn -
đường di chuyển - mục tiêu của các hợp chất tự nhiên và tổng hợp được biết tới
hoặc bị nghi là có các tính chất gây rối loạn nội tiết. Vòng đời của những chất
này (bao gồm cả các quá trình chiết tách, sản xuất, vận chuyển, sử dụng và xả
thải) cần được mô phỏng và kiểm tra một cách cẩn thận, với các số liệu quan
trắc làm cơ sở để đánh giá những tác động và chuyển hóa tiềm ẩn của một số chất
EDCs đã biết. Địa hóa học môi trường với cơ sở dữ liệu phong phú về đất, nước
mặt, hiện trạng sử dụng đất, khả năng tồn lưu sinh học và mô hình hóa giống
loài, có thể góp phần đáng kể vào công cuộc này.
VĂN LIỆU
1.
2. EUR, 1997. European Workshop on the Impact of endocrine disrupters
on human health and wildlife.
3. Hồng Khánh, 2008. Loạt bài viết về chất kích
thích rau tăng trưởng. Trong trang Web “VnExpress.net” http://vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2008/.
4. Lê Huy Bá, 2008. Cảnh báo độc chất từ môi
trường có nguy cơ gây bệnh ung thư. Trong trang Web “An toàn hoá chất” http://www.chemsafety.environment-safety.co.
5. Nguyễn
Hải, 2008.
Loạt bài viết về chất 3-MCPD trong nước tương. Trong trang WEB “An toàn hoá chất”
http:
//www.chemsafety.environment-safety.co.
6. Nguyễn
Quốc Thục Phương, 2008. Loạt bài viết về chất 3-MCPD trong nước tương. Trong trang Web “An
toàn hoá chất” http:
//www.chemsafety.environment-safety.co.
7. Plant Jane A. and
8. Trang Web 2008. “All Green Facts Digests” http://www.greenfacts.org/.
9. UKEA, 2000. The environmental agency, March 2000. Endocrine-disrupting substances
in the environment. The Environment Agency’s Strategy.