NHẬN DẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC ĐIỀU KIỆN VÀ QUÁ TRÌNH
ĐỊA CHẤT ĐỐI VỚI SỨC KHOẺ CỘNG ĐỒNG
NGUYỄN XUÂN KHIỂN1, NGUYỄN ANH TUẤN2
1Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Thanh Xuân, Hà Nội
2Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, 6 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội
Tóm tắt: Các quá trình địa chất, như hoạt động núi lửa,
magma - kiến tạo, nhiệt dịch, biến chất, phong hóa, trầm tích, vận chuyển vật
chất bằng những phương thức khác nhau, v.v. là những nguyên nhân vô cùng quan
trọng tạo nên sự thiếu hụt hay dư thừa một hay một số nguyên tố nào đó, tác
động trực tiếp tới chất lượng môi trường sinh thái, ảnh hưởng tiêu cực tới sự
sống của loài người và sinh vật. Đáng chú ý là: 1) Quá trình
phun nổ vật chất từ lòng đất khi núi lửa hoạt động đưa vào khí
quyển một lượng khí và bụi khổng lồ có thể góp phần làm biến đổi khí hậu của
Trái đất và làm ô nhiễm môi trường sinh thái. Đồng thời, ngoài tác động nghiêm
trọng của khí-bụi núi lửa, khối lượng dung nham và dòng xỉ vụn to lớn tràn phủ
lên mặt đất với tốc độ cao, trên diện rộng xung quanh miệng núi lửa, nếu không
được dự báo và có giải pháp phòng ngừa kịp thời sẽ đe dọa cuộc sống dân cư và
phá hủy cơ sở vật chất một cách khôn lường; 2) Quá
trình phong hóa, đặc biệt là phong hóa hóa học, có thể phá vỡ cấu trúc của đá và quặng,
dẫn đến sự phân bố lại các nguyên tố ở phần trên của thạch quyển. Đặc biệt, khi
quá trình này diễn ra trên các mỏ sulfur, mỏ quặng urani, v.v. có thể tạo ra
nguy cơ làm suy giảm chất lượng môi trường sinh thái một cách nghiêm trọng; 3) Quá trình trầm tích các sản phẩm phong hóa của các thành tạo địa
chất cổ, thực chất là một quá trình tích tụ và phân ly hóa học, trong đó diễn
ra sự phá vỡ các tổ hợp nguyên tố của các đá để lập lại các tổ hợp nguyên tố
khác trong một điều kiện môi trường địa chất mới. Quá trình này dẫn tới sự tập
trung cao nhiều nguyên tố, trong đó có nhiều thành phần độc hại lan tỏa vào môi
trường trong quá trình vận chuyển vật liệu trầm tích hay tích đọng thành các
thực thể trầm tích giàu chúng, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm cho môi sinh.
I. MỞ ĐẦU
Để
duy trì sự sống, cơ thể con người cần một lượng nhất định các nguyên tố như: C,
H, O, N, Ca, K, Na, Mg, P, S, Fe, Mn, Co, Cu, Zn, Mo, I, F, Se, Si, v.v.. Tuy
nhiên, nếu hàm lượng các nguyên tố này quá nhiều, chúng sẽ gây hại cho cơ thể.
Cũng có nhiều nguyên tố như As, Hg, Pb, Be, Te, Ba, Nb, Bi, Ti, Li, Ag, Au, Tl,
Ce, Th, U, Ra rất độc hại cho cơ thể. Thí dụ: môi trường sống có chứa các
nguyên tố phóng xạ với hàm lượng cao có thể gây ung thư, cơ thể thiếu I thường
mắc bệnh bướu cổ, đần độn; thừa F gây nhiễm độc fluor (fluorosis) với các biểu
hiện sứt răng, giòn xương.
Nhiều
nguyên tố nêu trên gây ô nhiễm môi trường sống có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp với các thực thể địa chất cũng như môi trường địa chất và các quá trình
địa chất đã và đang diễn ra trên Trái đất.
Các
quá trình địa chất như hoạt động núi lửa, magma - kiến tạo, nhiệt dịch, biến
chất, trầm tích, phong hóa, vận chuyển vật chất bằng những phương thức khác
nhau, v.v., là những nguyên nhân vô cùng quan trọng tạo nên sự thiếu hụt hay dư
thừa một hay một số nguyên tố nào đó, tác động trực tiếp tới chất lượng môi
trường sinh thái ở các vùng lãnh thổ khác nhau. Từ thực tế đó, A.P. Vinogradov
(1963) đã đề xuất khái niệm các “Tỉnh sinh địa hóa” để mô tả thực trạng này.
Tỉnh sinh địa hóa được hiểu là “những khu vực trên bề mặt Trái đất mà ở đó
hàm lượng các nguyên tố hóa học và hợp chất của chúng khác biệt so với các vùng
lân cận”. Theo đó, ông chia ra hai kiểu tỉnh sinh địa hóa: kiểu thiếu hụt các
nguyên tố, và kiểu dư thừa các nguyên tố.
Sự
thiếu hụt hay dư thừa một nguyên tố nào đó trong môi trường các tỉnh sinh địa
hóa có thể gây bệnh địa phương đối với thực vật, động vật và con người, thậm
chí có thể làm thay đổi giống loài hoặc dẫn đến tuyệt chủng; thí dụ: đới khô
hạn Ninh Thuận - Bình Thuận có thể được xem là một tỉnh sinh địa hóa, ở đó,
nhiều vùng đất có sự tích lũy cao so với phông địa hóa chung các nguyên tố kiềm
và kiềm đất, như Na, Ca, K, Mg gây hại cho cây trồng. Sự dư thừa F (>2 mg/l)
trong nước dưới đất ở đây có khả năng gây ra bệnh nhiễm độc fluor (fluorosis),
ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng.
Nhiều
thực thể địa chất chứa các nguyên tố có hại hoặc có lợi với hàm lượng cao hơn
giá trị trung bình, thí dụ:
-
Các đá núi lửa sáng màu, granitoid, đá phiến sét sẫm màu và các đá trầm tích /
biến chất chứa phosphat thường tích trữ một hàm lượng U cao hơn giá trị trung
bình của vỏ Trái đất đến mức gây độc hại cho cơ thể.
-
Các nguyên tố hiếm, đặc biệt là các nguyên tố phóng xạ Th, U, Ra thường hay tập
trung trong các thể đá pegmatit; thí
dụ so với gabbro, hàm lượng Li trong pegmatit granit cao gấp 100 lần, Rb
gấp 40 lần. So với trị số Clarke vỏ Trái đất, hàm lượng Ta, và đặc biệt là Nb,
cao gấp hơn 150 lần. Hàm lượng các nguyên tố phóng xạ trong pegmatit Thạch
Khoán (Phú Thọ) dao động trong một phạm vi khá rộng: U = 60-4500 ppm, Th =
30-300 ppm, nhưng thường ở mức cao, dẫn tới thành tạo các khoáng vật uraninit,
thorianit và các khoáng vật thứ sinh như autunit, torbernit, saleit, v.v. [2].
- Asbest
là một nhóm khoáng vật silicat gồm chrysotil, crocidolit và amosit có đặc tính
dễ tách thành sợi nhỏ, đàn hồi, chịu nhiệt, không dẫn nhiệt / dẫn điện, nên
trước đây đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Nhưng do các sợi nhỏ
dạng bụi của loại vật liệu này rất dễ phân tán trong không khí, theo đường hô
hấp chúng có thể gây nên ba loại bệnh phổi chủ yếu là: 1. Asbestosis làm giảm
khả năng hấp thu oxy của phổi; 2. Mesothelioma, một loại ung thư phổi phát
triển dọc theo màng phổi; và 3. Ung thư phổi.
Vì
lý do đó, từ năm 1996 Cơ quan Bảo vệ Môi trường thế giới (EPA) đã khuyến cáo
cấm sử dụng asbest vào mục đích dân sinh.
-
Trong thành phần của đất, ngoài các nguyên tố vi dinh dưỡng có lợi cho cây
trồng như B, Fe, Mn, Cu, Zn, Mo, Co, Cl, v.v. còn có nhiều nguyên tố độc hại,
đặc biệt là các kim loại nặng gây hại đối với cây trồng và qua đó ảnh hưởng xấu
tới sức khỏe con người, như As, Hg, Sb, Pb, Cd, Bi, Se, v.v.
Hàm
lượng As trong đất dao động trong khoảng từ 5 đến 40 ppm, trung bình 6 ppm. As
tồn tại dưới dạng (AsO4)3- trong môi trường oxy hóa, hoặc
bị hấp phụ bởi các khoáng vật sét, keo Fe/Mn và vật chất hữu cơ. Nhưng trong
loại đất có môi trường khử thì As linh động hơn vì arsenur (As3+)
hòa tan gấp 5-10 lần so với arsenat (As5+), trong đó, arsenur là
dạng độc hại mạnh hơn cả.
Hàm
lượng trung bình của Pb trong đất là 19 ppm (dao động từ 2 đến 300 ppm). Là một
nguyên tố kém linh động, Pb2+ có thể tham gia vào thành phần của
nhiều hợp chất khác nhau, như PbCO3, Pb(OH)2, Pb3(PO4)2
v.v. hoặc bị hấp phụ trong keo sét, oxit Fe/Mn và hợp chất hữu cơ. Pb có độc
tính cao, nó hạn chế hoạt động của các vi sinh vật trong đất.
Selen
(Se) với nồng độ cao trong đất có độc tính mạnh, gây hại cho cây trồng và
động vật. Trong đất gley chứa nhiều chất hữu cơ Se thường tồn tại dưới dạng hợp
chất hữu cơ; trong đất kiềm, dưới dạng selenat, còn trong đất có tính axit và
đất thoát nước tốt thì Se tồn tại dưới dạng selenur. Độ linh động của Se trong
đất tùy thuộc vào độ pH và Eh cũng như sự có mặt của các nguyên tố Fe và Mn.
Nguồn
gốc các nguyên tố kim loại nặng trong đất: - Do các đá mẹ bị phong hóa giải
phóng ra; - Tác động nhân sinh, do sử dụng nhiều loại phân bón hóa học, cũng
như các loại thuốc bảo vệ thực vật hoặc từ các nguồn nước thải công nghiệp và
nước thải đô thị, v.v..
Quá
trình tập trung hay phân tán các nguyên tố có lợi hoặc có hại cho môi sinh xảy
ra vô cùng phức tạp, nhiều khi có sự đan xen giữa các quá trình tự nhiên và các
quá trình sinh học, trong số đó, nhiều quá trình địa chất như hoạt động núi
lửa, magma - kiến tạo, phong hóa, bào mòn, vận chuyển vật liệu, trầm tích, tai
biến địa chất, v.v. đóng vai trò đặc biệt quan trọng, chi phối chất lượng của
môi trường sinh thái, thậm chí đe dọa đến sinh mạng của con người và thiệt hại
khôn lường về vật chất của một cộng đồng. Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích vai
trò chi phối chất lượng môi trường sinh thái của một số quá trình địa chất.
II. QUÁ TRÌNH HOẠT
ĐỘNG NÚI LỬA
Hoạt
động núi lửa có thể tác động xấu đến môi trường với những hậu quả sau:
1. Góp phần làm
biến đổi khí hậu
Đã
từ lâu, người ta cho rằng hoạt động núi lửa là một trong những nguyên nhân gây
nên sự thay đổi khí hậu của Trái đất và ngày nay điều đó vẫn được vận dụng để
giải thích một số hiện tượng biến đổi khí hậu địa phương hoặc toàn cầu. Quá
trình phun trào của núi lửa đã đưa vào khí quyển một lượng khí và bụi khổng lồ,
tồn tại ở đó hàng tháng, thậm chí hàng năm và lan tỏa trên diện rộng, có khả
năng làm thay đổi quy luật tuần hoàn chung của không khí trong khí quyển. Các
vật liệu núi lửa lơ lửng này có khả năng một mặt hấp thụ một phần bức xạ của
mặt trời, mặt khác tạo điều kiện cho nó phản xạ lại không trung, làm cho nhiệt
độ không khí bị thuyên giảm.
Cách
đây hơn 200 năm, Benjamin Franklin đã giải thích thời tiết lạnh bất thường
trong mùa đông năm 1783-1784 là do một lượng vật chất khổng lồ tung vào không
khí từ núi lửa Icelandia, làm cho ánh nắng mặt trời phản chiếu lại không trung.
Giống như vậy, nguyên nhân tạo ra các thời kỳ có thời tiết mát mẻ năm 1815 được
giải thích gắn liền với thời gian hoạt động của núi lửa Tambora ở Indonesia,
theo đó, khoảng 175 km3 tro bụi núi lửa được đưa vào không khí và
nhờ vào hoạt động tuần hoàn của không khí trong khí quyển mà ảnh hưởng của nó
lan trên diện rất rộng, thậm chí lên tận Bắc cực.
Những
năm gần đây, nhờ có công nghệ phân tích ảnh vệ tinh và các thiết bị viễn thám,
các nhà khoa học đã theo dõi chặt chẽ tác động của các đám mây khí và tro đối
với không khí do các núi lửa St. Helens ở bang Washington (Mỹ) năm 1980, El
Chichon (Mehico) năm 1982 và M. Pinatubo (Philippines) năm 1991 đưa vào không
trung trong quá trình hoạt động phun trào của chúng. Sau hai năm theo dõi và
nghiên cứu liên tục sự phun trào của núi lửa El Chichon, người ta thấy tác động
của nó đã làm giảm nhiệt độ không khí từ 0,3 đến 0,5oC so với nhiệt
độ trung bình toàn cầu. Núi lửa này đã đồng thời phun vào không khí một lượng
lớn các khí giàu sulfur (gấp 40 lần so với núi lửa
2.
Làm thay đổi chất lượng của
môi trường sinh thái
Các
dung thể magma chứa từ 1 đến 5% trọng lượng khí hòa tan, chủ yếu là hơi nước,
thậm chí nhiều nhà khoa học cho rằng đó chính là nguồn nguyên thủy của nước đại
dương. Do vậy, khi núi lửa hoạt động, đồng thời với những mảnh vụn đá, bom dung
nham và tro bụi, một lượng khí khổng lồ cũng đã được đưa vào không trung, làm
thay đổi thành phần của không khí trong khu vực. Kết quả phân tích thành phần
các mẫu khí thu thập trong quá trình phun trào núi lửa ở Hawai cho thấy khoảng
70% là hơi nước, 15% CO2, 5% N, 5% S và một lượng nhất định Cl, H,
Ar. Trong điều kiện nhiệt độ cao và áp suất thấp ở gần bề mặt Trái đất, các
loại khí này tăng khối lượng của chúng gấp hàng trăm lần khối lượng ban đầu.
2.1. Đe dọa cuộc sống cộng đồng: Ngoài tác động nghiêm
trọng của khí-bụi núi lửa tới môi trường sinh thái, một lượng dung nham khổng
lồ, hoặc các dòng xỉ vụn phủ lên mặt đất trên diện rộng xung quanh miệng núi
lửa với tốc độ cao; nếu không được dự báo và có giải pháp phòng ngừa kịp thời
sẽ đe dọa cuộc sống dân cư và phá hủy cơ sở vật chất một cách khôn lường. Thí
dụ:
-
Năm 1902, núi lửa Mt Pelee (vùng đảo Caribe, châu Mỹ) hoạt động đã phun ra một
lượng dung nham lớn phá hủy gần như hoàn toàn cảng St. Pierre, giết chết 28.000
người trong phút chốc.
-
Tháng 6/1944, dòng xỉ vụn từ núi lửa Paricutin
(phía tây Mexico City) dày 10 m đã phủ gần như toàn bộ làng San Juan
Parangaricutiro một cách nhanh chóng.
III. QUÁ TRÌNH
PHONG HÓA
Nhiệt
độ và thành phần các khí O2, H2O, CO2 của khí
quyển, nước, axit hữu cơ và các hoạt động địa động lực là những tác nhân phong
hoá vô cùng quan trọng đối với các đá và quặng trong thạch quyển. Đặc biệt,
phong hoá hoá học có thể phá vỡ cấu trúc của các đá và quặng, dẫn đến sự phân
bố lại các nguyên tố ở phần trên của thạch quyển. Trong các tác nhân phong hóa
thì thủy phân là một quá trình có thể phá hủy hoàn toàn khoáng vật này, tạo
điều kiện cho sự hình thành khoáng vật khác bền vững hơn trong điều kiện trên
mặt dưới tác dụng của nước. Quá trình này thường xảy ra theo hai giai đoạn:
-
Giai đoạn sialit kiềm: trong đó, các alumosilicat bắt đầu bị phân hủy
làm cho các cation bị lôi cuốn đi, nguyên tố kim loại kiềm và kiềm đất hòa tan
dưới dạng dung dịch thật làm cho môi trường có phản ứng kiềm. Khi đó sẽ hình
thành các khoáng vật sét trung gian như montmorilonit (đối với đá magma mafic,
siêu mafic) và hydromica (nếu là đá magma thành phần axit)
-
Giai đoạn sialit axit: trong đó, các cation tiếp tục bị lôi cuốn đi, một
phần SiO2 bị hòa tan tạo cho môi trường có phản ứng axit, các khoáng
vật sét trung gian bị phân hủy thành nhóm kaolinit.
Trong
quá trình oxy hóa, vật chất hữu cơ có màu xám đen và đen biến thành màu xám
nhạt, đồng thời giải phóng CO2 vào không khí.
Đối
với những loài thực vật sống bám trên đá thì sự sống được duy trì bằng sự hấp
thụ một số nguyên tố trong đá như K, Ca, SiO2, Mg, Na, P, S, Al, Fe,
v.v., đồng thời nhả ra axit tác dụng vào đá. Quá trình phân hủy các thành phần
của đá do tác động của sinh vật xảy ra ở những mức độ khác nhau, bắt đầu là vi
khuẩn và tảo, sau đó là vi thực vật như khuê tảo, nấm, thực vật ưa đá (rêu đá), cuối cùng là các loài thực vật
cao đẳng.
1. Quá trình biểu
sinh các mỏ sulfur
Các
mỏ sulfur hầu hết là sản phẩm của quá trình nhiệt dịch, được thành tạo trong
điều kiện dưới sâu ở nhiệt độ dao động trong khoảng từ 600-500oC đến
50-100oC. Khi được nâng lên, bị bóc mòn, lộ ra trên mặt đất hoặc ở
gần mặt đất, nơi có điều kiện áp suất - nhiệt độ thấp, có mặt O2 tự
do và CO2, các khoáng vật sulfur trở nên không vững bền, bị biến đổi
hóa học để chuyển thành các hợp chất vững bền hơn như oxit, carbonat, sulfat,
v.v.. So với các khoáng vật tạo đá, các khoáng vật sulfur trong đới biểu sinh
bị biến đổi mạnh mẽ hơn, các nguyên tố tạo quặng được giải phóng nhiều hơn. Các
sulfur rất dễ bị biến đổi vì S2- trong hợp chất này dễ dàng bị oxy
hóa thành S6+ ở dạng SO42- theo phản ứng: S2- + 4H2O ↔ SO42- + 8H+
+ 8e-
Phản
ứng oxy hóa các sulfur là loại phản ứng phát nhiệt. Trong trường hợp mỏ sulfur
tiếp xúc trực tiếp với oxy khí quyển, phản ứng oxy hóa xảy ra mạnh mẽ, nhiệt độ
có thể lên tới 300oC, gây nguy cơ cháy nổ cao; thí dụ: tại mỏ than
Nà Dương (Lạng Sơn), do pyrit có hàm lượng đáng kể trong thành phần của than bị
oxy hóa nên khi khai thác lộ thiên thường xảy ra các đám cháy tự phát tại khai
trường, thậm chí ngay trong quá trình vận chuyển than.
Tác
nhân chủ yếu chi phối quá trình biểu sinh các sulfur là O2, CO2
và H2O. Do ảnh hưởng của khí quyển, thành phần các khí hòa tan trong
nước mưa thông thường là (%): N2 = 60; O2 = 30; CO2.
Trong quá trình di chuyển từ mặt đất qua lớp thổ nhưỡng xuống sâu hơn, nước mưa
ngày càng trở nên giàu CO2 do hòa tan lượng CO2 sinh ra
từ các chất hữu cơ bị phân hủy, nên ngoài O2 và nước ra, CO2
cũng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phong hóa.
Kết
quả nghiên cứu cho thấy, trong điều kiện biểu sinh, các sulfur nhanh chóng bị
oxy hóa thành sulfat, các kim loại được giải phóng sẽ phân tán vào môi trường
nước di chuyển ra khỏi phạm vi mỏ, hay chuyển đổi thành những hợp chất thứ sinh
vững bền, như sulfat, carbonat, silicat, v.v. hoặc theo nước dưới đất vận
chuyển xuống dưới sâu hơn và gây phản ứng với các khoáng vật nguyên sinh để tạo
nên sulfur thứ sinh. Sự khuếch tán một số kim loại nặng độc hại vào môi trường
đất, nước chắc chắn có nguy cơ gây nguy hiểm đối với sức khỏe con người.
Khoáng
vật sulfur chứa sắt rất phổ biến và có thể gặp trong nhiều loại đá khác nhau,
như magma, trầm tích, biến chất, than đá, v.v.. Trong các mạch quặng nhiệt
dịch, pyrit được thành tạo từ nhiệt độ cao đến nhiệt độ thấp. Khi khoáng vật
này bị phong hóa thì sản phẩm cuối cùng là oxit Fe, một hợp chất rất khó hòa
tan và tích đọng lại trong đới oxy hóa các mỏ sulfur dưới dạng một thành tạo
địa chất màu nâu gụ đặc trưng, thường gọi là “mũ sắt”, từ phản ứng: 4FeS2 + 15O2 + 14H2O →
4Fe(OH)3 + 8H2SO4.
Vì
Fe(OH)3 là một bazơ không tan nên chuyển dần thành limonit (Fe2O3.3H2O),
là thành phần cơ bản của “mũ sắt”.
Các khoáng vật sulfur chứa sắt khác, như
pyrrotin, marcasit cũng bị oxy hóa tương tự pyrit. Axit H2SO4
và sulfat Fe3+ được giải phóng ra trong quá trình oxy hóa các sulfur
chứa sắt có thể tác dụng lên các khoáng vật sulfur khác, đồng thời đẩy nhanh
quá trình phân hủy chúng.
Trong nhiều trường hợp, các mạch nhiệt dịch
có chứa nhiều loại khoáng vật sulfur Cu, như chalcopyrit (CuFeS2),
chalcozin (Cu2S), covellin (CuS), bornit (Cu5FeS4)
cubanit (Cu2Fe4S6) và các khoáng vật thành
phần phức tạp khác, như galenit (PbS), grinockit (CdS), alabandit (MnS),
cinnabar (HgS), realgar (AsS), v.v.. Các khoáng vật sulfur Cu thường cộng sinh
với pyrit, vì vậy, khi pyrit bị oxy hoá, giải phóng H+, làm tăng độ
axit của môi trường và làm thay đổi độ linh động của Cu2+. Ion Cu2+
có thể từ vỏ phong hoá di chuyển vào nước dưới đất, làm thay đổi chất lượng của
nước. Đối với các mỏ quặng sulfur, S là một nguyên tố quyết định quá trình tạo
khoáng sulfur trong điều kiện nội sinh, nhưng S cũng chính là nguyên tố thúc
đẩy sự phân huỷ các khoáng vật sulfur trong điều kiện ngoại sinh. Bên cạnh đó,
nước vừa là tác nhân phong hoá, vừa là phương tiện vận chuyển các tác nhân khác
và các hợp phần được giải phóng ra do quá trình oxy hoá các mỏ sulfur tạo nên.
Theo cơ chế chuyển hoá nêu trên của các
khoáng vật sulfur, kết quả của quá trình biểu sinh các mỏ sulfur đã làm gia
tăng đáng kể hàm lượng của nhiều kim loại nặng như Cu, Pb, Zn, Fe, Cd, Ag, As,
v.v. trong các nguồn nước chảy qua các mỏ này và đương nhiên, chất lượng của
nguồn nước chắc chắn có nguy cơ bị ô nhiễm, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống
của giới sinh vật, trong đó có con người.
2. Oxy hoá mỏ quặng
urani
Khoáng vật nguyên sinh của urani trong mạch
quặng chủ yếu là tinh thể uraninit (UO2) và vi tinh thể pitchblend
(UO2 hay U3O8). Trong điều kiện oxy hoá, UO2
chuyển thành các khoáng vật có màu rực rỡ, như tuyamunit [Ca(UO2)2(VO4)2.nH2O],
autunit [Ca(UO2)2(PO4)2.nH2O],
retzerfordit [UO2.CO3], v.v.. Các khoáng vật này hoà tan
ít và nguyên tố U đi vào nước mặt, nước dưới đất, gặp môi trường khử nó lắng
đọng lại dưới dạng coffinit [USiO4.nH2O], làm cho môi
trường nước của vùng mỏ bị ô nhiễm phóng xạ nguy hiểm.
Liên quan tới quá trình phong hoá các mỏ
phóng xạ và các mỏ có chứa phóng xạ, tác nhân gây ô nhiễm môi sinh ngoài nguyên
tố U có thể xâm nhiễm vào nguồn nước, khí radon, một loại khí trơ không màu, không mùi, vô
hình, thoát ra từ bề mặt khoáng vật quặng, thẩm thấu trong đất, hoà tan trong
nước, lan toả trong không khí bằng những phương thức khác nhau, là một trong
những hiểm hoạ có thể làm suy thoái nghiêm trọng chất lượng môi trường sinh
thái.
Thực ra, radon (Rn) mới được dư luận chú ý
tới từ năm 1984, khi một công nhân ở nhà máy điện nguyên tử Pensylvania bị
thiết bị kiểm tra báo động bức xạ (radiation) khi vào nhà máy làm việc. Người
ta phát hiện tóc và quần áo của anh ta bị nhiễm một lượng lớn các sản phẩm phân
rã radon. Qua điều tra cho thấy, người công nhân này đã sống tại ngôi nhà với
nền móng có hàm lượng radon cao hơn 2800 lần so với mức trung bình của không
khí trong nhà. Bởi lẽ, ngôi nhà của anh ta nằm trên một loại đá phiến đen chứa
urani của hệ tầng Reading Prong, phân bố từ vùng Reading (Pensylvania) đến gần
Trenton (New Jersey, Mỹ). Có nguồn gốc từ quá trình phân rã phóng xạ U và Th có
mặt trong thành tạo địa chất này, các đồng vị radon (Rn-222 và Rn-220) được tái
tạo liên tục trong các quá trình tự nhiên đang tiếp diễn [6].
Rn-222 là một đồng vị phóng xạ nằm trong
chuỗi phóng xạ của dãy U-238; thoron-220 của dãy thorium-232; và actinon-119
của dãy U-235. Trong tự nhiên thường biết đến là đồng vị Rn-222 của dãy urani
và thoron-220 của dãy thori. So với thoron-220 và actinon-119, độ nguy hiểm
phóng xạ của khí radon-222 rất cao do chu kỳ bán hủy phóng xạ là khoảng 4 ngày,
trong khi đó chu kỳ bán hủy của thoron-220 là 55 giây và của actinon-119 là 4
giây. Trong không khí, radon và thoron tồn tại ở dạng nguyên tử tự do, sau khi
thoát ra từ đất đá, nước, v.v. chúng phân rã thành chuỗi các đồng vị phóng xạ
con cháu, trong đó nguy hiểm nhất là poloni-218. Poloni phân rã alpha với chu
kỳ bán hủy là 3,05 phút, đủ cho một vài chu trình thở trong hệ thống hô hấp của
cơ thể sống. Poloni-218 nhiễm vào các phần tử bụi tạo thành các hạt sol khí
phóng xạ. Các hạt này thường có kích thước cỡ vài chục micromet, nên có thể dễ
dàng xâm nhập vào phổi qua đường hô hấp và lưu giữ trong các phế nang, tại đó,
poloni-218 phân rã alpha phát ra các hạt nhân heli. Các hạt alpha có năng lượng
rất cao sẽ bắn phá nhân tế bào nang, gây hại cho nhiễm sắc thể, tác động tiêu
cực đến cơ chế phân chia tế bào. Một phần năng lượng phân rã hạt nhân truyền
cho hạt nhân phân rã, làm cho các hạt nhân này bị giật lùi. Năng lượng giật lùi
của các hạt nhân radon có thể đủ để phá vỡ các phân tử protein trong tế bào phế
nang. Hậu quả là xác suất gây ung thư do radon trở nên rất cao. Hay nói cách
khác, ngoài tác hại do hút thuốc lá, tai biến phóng xạ radon là một trong những
nguyên nhân gây bệnh ung thư phổi.
3. Các biện pháp
phòng ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực
Điều quan trọng trước nhất là phải biết được
nồng độ radon của môi trường của nơi sinh sống và nguyên nhân dẫn đến nồng độ
radon cao hơn mức cho phép theo tiêu chuẩn của cơ quan Năng lượng Nguyên tử
Quốc tế (IAEA) để có thể áp dụng những giải pháp phòng ngừa và giảm thiểu tác
động tiêu cực thích hợp. Trên thực tế, do không có được những thông tin này, ở
một số nơi người dân đã sử dụng đất đá giàu chất phóng xạ làm vật liệu xây
dựng, hay sinh sống ở gần khu vực thân quặng có hàm lượng phóng xạ cao, sử dụng
các nguồn nước trực tiếp từ các thân quặng đó làm gia tăng đáng kể nồng độ
radon trong nhà dẫn đến suy giảm sức khỏe hay tử vong.
Như vậy, để giảm thiểu hàm lượng radon trong
nhà, cần lưu ý sử dụng loại vật liệu xây dựng có hàm lượng các chất phóng xạ
cho phép. Nhà cần được xây dựng cao ráo, thoáng khí, thường xuyên được thông
gió; trước khi sử dụng nước lấy từ sông suối vùng có nguy cơ phóng xạ cần được
đun sôi, để nơi thoáng mát một thời gian nhất định. Nếu cư trú ở những vùng có
khoáng sản giàu phóng xạ tự nhiên, nhất thiết phải tính đến thời gian làm việc
hợp lý, hoặc tùy thuộc mức độ phóng xạ mà có thể sử dụng các biện pháp phòng
tránh thích hợp, thậm chí phải di dời chỗ ở.
IV. QUÁ TRÌNH TRẦM
TÍCH
Có thể quan niệm quá trình trầm tích sản phẩm
phong hoá của các thành tạo địa chất cổ là một quá trình tích tụ và phân ly hóa
học, trong đó diễn ra sự phá vỡ các tổ hợp nguyên tố của các đá để lập lại các
tổ hợp nguyên tố mới. Quá trình phân ly đó trong nhiều trường hợp có thể tách
rời thạch anh trong cát kết, trong các đá granitoid, Al trong bauxit, cũng như
trong các đá alumosilicat, Fe trong laterit, Ca trong đá vôi và thạch cao, Na
và K trong trầm tích muối, v.v.. Ngược lại, các nguyên tố cũng có thể liên kết
với nhau tạo nên những tổ hợp khác nhau, như Al và Si trong trầm tích sét, Ca
và Mg trong đá carbonat, v.v..
Trong đá trầm tích cũng có thể xảy ra sự thay
thế đồng hình của các nguyên tố, Thí dụ: Li → Mg, Ga →
Al trong sét, Ba → K trong khoáng vật illit. Bên cạnh đó, vật
chất hữu cơ trong đá trầm tích cũng đóng vai trò quan trọng trong việc làm giàu
nguyên tố trong đá trầm tích, chúng có thể chứa một số nguyên tố hiếm V, Mo,
Ni, Co, As, Cu, Br, I với hàm lượng nhất định, đôi khi tập trung rất cao và có
thể tạo thành các hợp chất hữu cơ kim loại. Tuy nhiên, sự phân bố của các
nguyên tố còn tùy thuộc vào đặc điểm môi trường trầm tích. Thí dụ:
- Mn và oxyt của nó được lắng đọng trong môi
trường oxy hóa. Cùng với Mn sẽ lắng đọng As và Sb, nhưng do arsenat và
antimonat được giải phóng ra trong quá trình oxy hóa các mỏ quặng sulfur là
những hợp chất ít tan, nên hàm lượng As và Sb trong trầm tích không đáng kể.
- Tuỳ thuộc vào độ pH và Eh của môi trường,
các khoáng vật của Fe có những trường phân bố nhất định, giữa chúng tạo nên các
cân bằng vật chất ứng với nồng độ các chất có trong thành phần môi trường trầm
tích.
- Điều kiện địa chất để lắng đọng Fe gồm: oxy
hoá các khoáng vật nguyên sinh của Fe tại chỗ, oxy hoá sau khi khoáng vật
nguyên sinh của Fe đã di chuyển chút ít trong đất, oxy hoá trong môi trường
sông, hồ, đầm khi nước thoáng khí và không có vật chất hữu cơ.
- Giống như carbonat, phần lớn phosphat, trừ
phosphat kim loại kiềm, hầu như không hoà tan trong dung dịch trung tính và
kiềm.
Khác với trong các đá magma, hàm lượng các
hợp phần chính, như SiO2, TiO2, Al2O3,
Fe2O3, FeO, MnO, MgO, CaO, Na2O, K2O,
P2O5, SO3, CO2, v.v. trong các đá
trầm tích có biên độ thay đổi rất lớn (từ 0 đến 99%). Các quá trình hoà tan và
kết tủa, hấp thụ, hoạt động của sinh vật, v.v. dẫn đến sự lắng đọng nguyên tố
từ dung dịch tác động mạnh đến các nguyên tố chính hơn là đối với các nguyên tố
phụ, trừ một số nguyên tố như P, B, Mn, Cu, V, U. Trong số các đá trầm tích, so
với cát kết và đá carbonat thì các nguyên tố phụ, như Ba, Li, Rb, Sr, Ce, Co,
F, Cr, Ga, Ti, Th, Ge, v.v. chủ yếu tập trung cao trong đá phiến sét, trừ Sr,
Mn, Zr và TR. Cát kết thường có hàm lượng Zr và TR cao do quá trình làm giàu cơ
học zircon và monazit. Đá vôi chứa nhiều Sr là do Sr2+ có hành vi
địa hoá tương tự như Ca2+; còn các đá phiến sét giàu các nguyên tố
hiếm là do khả năng hấp phụ cao của chúng.
Như vậy, quá trình trầm tích các sản phẩm
phong hoá từ các thực thể địa chất cổ, ngoài các sản phẩm phong hoá hoá học,
dẫn tới sự tập trung cao nhiều nguyên tố, trong đó có nhiều thành phần độc hại
lan toả vào môi trường trong quá trình vận chuyển vật liệu trầm tích hoặc tích
tụ thành các thực thể trầm tích giàu chúng; nhiều tích tụ sa khoáng đã được
hình thành, chứa các khoáng vật phóng xạ độc hại với hàm lượng khác nhau, tiềm ẩn
nguy cơ gây ô nhiễm cho môi sinh. 45 mỏ sa khoáng titan-zircon - đất hiếm đã
được phát hiện và đánh giá dọc theo dải bờ biển Việt Nam [Nguyễn Biểu và nnk,
1985; Trần Văn Trị, 1999] là một thí dụ. Trong thành phần của các tụ khoáng
này, ngoài ilmenit (FeTiO3), rutil (TiO2), còn có các
khoáng vật nhóm đất hiếm và kim loại hiếm như zircon (ZrSiO4) thường
chứa tạp chất Hf, Th, U, monazit [(Ce, La, Y, Th) (PO4)] và xenotim
[Y(PO4)] thường chứa tạp chất Th, U, TR, v.v.. Đáng chú ý là
monazit, trong thành phần hoá học của khoáng vật này có chứa (%): Ce2O3
= 21,08-34,99; (La,Nd)2O3 = 27,90-41,83; Y2O3
= 0-5,08; ThO2 = 0-12; U3O8 >1. Có nhiều
nơi, như dọc theo bờ biển vùng Hải Phòng - Nam Định, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế,
Bình Định - Phú Yên - Khánh Hoà, v.v. các thân sa khoáng ven biển có chứa monazit với hàm lượng tương đối cao. Đặc
biệt, tại các tụ khoáng Quảng Ngạn, Kế Sung (Thừa Thiên Huế) loại sa khoáng này
phân bố trên một dải cát nổi dọc bờ biển với tổng chiều dài 41 km, chiều rộng
trung bình 530 m, dày trung bình 4,03 m, ngoài ilmenit, còn có zircon và
monazit với hàm lượng lên tới 0,87 kg/m3, trữ lượng khoảng 3000 tấn
[Trần Nghi và nnk, 2006]. Chính vì vậy, trong quá trình khai thác, chế biến
loại khoáng sản này, các doanh nghiệp buộc phải có những giải pháp cụ thể và
khả thi để giảm thiểu ô nhiễm phóng xạ do sự tích tụ monazit gây ra.
VĂN LIỆU
1. Đặng Trung Thuận, 2005. Địa hóa học. Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
2.
Đặng Trung Thuận, Đỗ Thị Vân Thanh, 1995.
Vỏ phong hóa và môi trường. ĐHKHTN, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Đặng Văn Can, Đào Ngọc Phong, 2000. Đánh giá tác động của arsen tới môi sinh và sức khoẻ con người ở các vùng mỏ nhiệt dịch có
hàm lượng arsen cao. Địa chất và Khoáng sản, 7 : 199-204. Viện NC ĐC&KS.
Hà Nội.
4. Hendron A.J., Patten F.D.,
1985. The Vaiont Slide. US Corps of
5. Nguyễn Văn
6. Tappin D., 2006. Learning from the
tsunami. Earthwise 23, British Geol. Surv.
7. Tarbuck E.J., Lutgens F.K., 1997. Earth Science. The 8th
edition. Prentice-Hall, Inc.