TỤC ĂN ĐẤT Ở VIỆT
VÕ CÔNG NGHIỆP1, DƯƠNG ĐỨC KIÊM2,
TRẦN TÂN VĂN2,
KIỀU QUÝ NAM3, NGUYỄN VĂN VIỆT4,
ĐỖ DOÃN HOÀNG5
1Viện Địa chất và Môi trường, Tổng hội Địa chất Việt
Nam, 6 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội
2Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Thanh Xuân, Hà Nội
3Viện Địa chất, Viện KH&CN VN, Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy,
Hà Nội
4Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á;
5 Báo Lao động, Hàng Bồ, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Tóm tắt: Tục ăn đất là một hiện
tượng khá phổ biến trên thế giới. Ở nước ta, tục này được phát hiện tại vùng Lập
Thạch (Vĩnh Phúc) và nhiều nơi khác thuộc các tỉnh Phú Thọ, Lào Cai, Yên Bái,
Điện Biên, Lai Châu, … Nó có thể có nhiều căn nguyên: do nhu cầu bổ sung vi chất
dinh dưỡng cho cơ thể; để khử độc thực phẩm; để “đánh lừa dạ dày” trong cơn
đói; do thói quen hình thành từ phong tục cộng đồng và yếu tố tín ngưỡng - tâm
linh; biểu hiện của sự “hồi tổ”; để giải tỏa căng thẳng thần kinh, …
Tuy có vẻ “khác
thường”, nhưng tục ăn đất cũng là một nhu cầu của đời sống vật chất và tinh thần
ở con người, bởi vậy xã hội không nên có thái độ kỳ thị; tuy nhiên cũng không
khuyến khích hoặc bàng quan, vì ăn đất có thể đồng thời đưa vào cơ thể những
nguyên tố độc hại và vi khuẩn gây bệnh nguy hiểm.
Để tìm
hiểu đầy đủ tục ăn đất ở nước ta, cần có một đề tài nghiên cứu nghiêm túc với sự
cộng tác chặt chẽ giữa các ngành hữu quan thuộc cả khoa học tự nhiên lẫn khoa học
xã hội và nhân văn, từ đó xác lập nhận thức đúng đắn và đề xuất các chủ trương
thích hợp trong việc quản lý về mặt văn hoá
- xã hội cũng như bảo vệ sức khỏe cộng đồng liên quan với tục này.
I. GIỚI THIỆU
Trong thói quen sinh hoạt của con người cũng như động vật, không hiếm
khi ta thấy một hiện tượng kỳ lạ: một số người (hay động vật) thích ăn … đất đến
mức trở thành nghiện. Thuật ngữ khoa học gọi đó là chứng nghiện đất
(geophagy) hay tục ăn đất (geophagical customs).
Do tính chất không bình thường của tục ăn đất nên nhiều người xem đó như
một điều quái dị. Chẳng thế mà hồi cuối năm 2004 - đầu năm 2005, trên các
phương tiện thông tin đại chúng bỗng rộ lên những tin tức thú vị về chuyện ăn đất
của cư dân vùng Lập Thạch (Vĩnh Phúc) với hàng loạt bài báo đăng trên An ninh
thế giới, Công an nhân dân, Khoa học và đời sống, Lao động, Vietnamnet, … Đặc
biệt chương trình “Chuyện lạ Việt Nam” của Đài truyền hình Việt Nam trong buổi
phát hình trưa ngày 14/5/2005 đã kể lại chuyến khảo sát tục ăn đất ở Lập Thạch
của nhóm phóng viên với những hình ảnh minh họa rất sinh động về cảnh đào xúc,
chế biến “ngói ăn” cùng với những pha trình diễn “ngoạn mục” về việc ăn đất một
cách ngon lành của một số người dân địa phương, khiến khán giả không khỏi ngạc
nhiên và lấy làm thích thú. Tiếp theo đó (26/08/2005), một cuộc Hội thảo khoa học
về Tục ăn đất do Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á chủ trì đã được tổ chức tại Hà Nội
với chủ đề “Thói quen ăn đất đá ở Việt Nam, hiện trạng và những kiến giải
khoa học”, nhằm góp chung tiếng nói cùng báo chí khêu gợi lại và giải thích
từ những khía cạnh khác nhau một tục tập đã được giới khoa học biết đến từ hơn
một thế kỷ trước ở nước ta. Hội thảo đã nghe trình bày các báo cáo khoa học và
trao đổi ý kiến về hiện trạng tục ăn đất ở Việt Nam cũng như trên thế giới,
phân tích căn nguyên của nó từ những khía cạnh sử học, khảo cổ học, dân tộc học,
phong tục học, dinh dưỡng học, địa chất học… Từ đó đề xuất phương hướng nghiên
cứu tiếp theo về tục ăn đất ở nước ta.
Báo cáo của các nhà địa chất tại Hội thảo với nội dung đưa ra một số kiến
giải khoa học về tục ăn đất, xét từ góc độ địa chất y học đã nhận được sự đồng
tình của cử toạ và những khuyến nghị nêu lên trong báo cáo về nhiệm vụ, phương
pháp nghiên cứu tục ăn đất của ngành Địa chất được xem là một nội dung quan trọng
không thể thiếu trong việc nghiên cứu tục ăn đất trong thời gian tới [15]. Nhân
dịp xuất bản chuyên san của Tạp chí Địa chất này, các tác giả xin giới thiệu nội
dung báo cáo trên, có bổ sung, mở rộng hơn và cập nhật những thông tin mới với
mong muốn góp phần làm sáng tỏ thêm một tập tục kỳ thú lâu đời của một số dân tộc
Việt Nam.
II. SƠ LƯỢC VỀ TỤC
ĂN ĐẤT Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Ăn đất được xem là “chuyện lạ đó đây”, kích thích sự chú ý của không ít
người có tính hiếu kỳ. Thực ra đối với giới khoa học thì hiện tượng này đã được
biết đến từ lâu và không phải là hiếm thấy ở nước ta cũng như trên thế giới. Rất
nhiều nguồn văn liệu cho thấy tục ăn đất đã được phát hiện ở khắp các châu lục
và ở nhiều dân tộc, nhưng phổ biến nhất là châu Phi và Nam Mỹ.
Ở châu Phi, tục này thường gặp nhiều
nhất tại các quốc gia cận xích đạo, từ bờ biển Ngà, Ghana, Nigeria, Cameroon,
Trung Phi, Gabon, Congo - ở phía tây, đến Uganda, Kenya, Tanzania - ở phía
đông. Ngoài ra cũng thấy rải rác ở một số nước khác: Maroc, Algerie, Tunisie,
Sudan, Ai Cập, Nam Phi (Hình 1). Ta có thể kể một số ví dụ: theo số liệu điều
tra 285 học sinh tiểu học ở Kenya thì có đến 73% em nghiện ăn đất, còn ở phụ nữ
thì tỷ lệ đó là 154/275 (56%). Mỗi trẻ em ở đây mỗi ngày có thể ăn từ 8 đến 108
g đất tuỳ theo lứa tuổi [2]. Ngoài những loại đất thường (sét, caolin,
bentonit…), đất ụ mối cũng được rất nhiều người ưa thích.
Tục ăn đất ở châu Phi đang là một vấn đề được quan tâm đặc biệt của giới
khoa học. Tại nhiều cuộc Hội thảo quốc tế và khu vực về địa chất y học như “Hội
thảo khu vực Đông và Nam Phi về địa chất y học lần thứ I” tại Nairobi (Kenya)
năm 1999 và lần thứ 2 tại Lusaka (Namibia, 2004), hay “Hội thảo về sức khoẻ và
môi trường địa hoá” tại Upsala (Thụy Điển, 2000), chuyên đề “ăn đất” bao giờ
cũng có mặt trong chương trình nghị sự.
|
Hình 1. Sơ đồ phân bố các địa phương có tục ăn đất ở Châu Phi (theo
Lagercrantz, 1958). |
Ở Châu Mỹ tục ăn đất đã có ở một số bộ lạc thổ dân trước khi miền đất
này được C. Colombo phát hiện. Đến khi những người nô lệ châu Phi bị đưa sang
đây để phục vụ công cuộc khai phá Tân Thế Giới của người da trắng, thì tập tục
này càng phổ biến do dân nô lệ nhập cư truyền bá. Hiện nay tục ăn đất còn
tồn tại ở miền Nam Hoa Kỳ, vùng Caribe, Venezuela, Peru và nhiều nơi khác thuộc
Nam Mỹ.
Ở châu Âu tục ăn đất
cũng được phát hiện tại Đức, Anh, Italia. Ở Anh, theo số liệu điều tra có khoảng
3000 người phụ nữ thú nhận là họ đã ăn gạch và đất vì quá thèm khi thai nghén.
Hằng năm các nước châu Âu phải nhập khẩu từ châu Phi hàng trăm tấn đất để chế
biến, đáp ứng nhu cầu của những người nghiện đất.
Ở châu Á có Trung Quốc,
Nhật Bản, Ấn Độ, Nga (Sibir), Việt Nam, … là những nơi khá phổ biến tục ăn đất.
Ở Sibir (Nga), dân bản địa một số vùng có thói quen mỗi chuyến đi xa thường
mang theo một gói đất từ quê hương để khi nhớ nhà họ giở đất ra nhấm nháp cho
khuây khỏa nỗi buồn cô đơn.
Thói quen nghiện đất
cũng thấy ở một số loài động vật. Ở Ruwanda có giống khỉ Gorila rất
thích ăn một loại đất sét trông giống caolin. Còn giống hắc tinh tinh lại ưa
món “đặc sản”: đất ụ mối. Ở
Tài liệu phân tích
khoáng vật học các mẫu đất đá ở đây cho thấy sự có mặt phong phú các khoáng chất
sau: calcit (CaCO3), halit (NaCl), thạch cao (CaSO4.2H2O),
anhydrit (CaSO4), natron (Na2CO3), magnesit
(MgCO3), mirabilit (Na2SO4.10H2O)…
Người ta cũng thường thấy
một số loài thú hoang hay đến uống nước và liếm đất ở những nguồn nước khoáng
có hàm lượng muối cao. Lợi dụng điều đó các thợ săn hay đến rình ở các điểm xuất
lộ nước khoáng để săn bắn.
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
*Những văn liệu này kể theo lời trích dẫn của GS. Lê Nhâm Tuyết [8], chúng tôi chưa được tiếp cận với nguyên bản (Các tác giả).
Trong số các loài chim
có loài vẹt xanh ở Nam Mỹ và
Những dẫn chứng nêu trên
cho thấy thói quen ăn đất là một hiện tượng khá phổ biến trên thế giới và không
phải chỉ có ở loài người mà có cả ở một số loài động vật khác. Vậy ở Việt
III. TỤC ĂN ĐẤT Ở
VIỆT
Ở Việt
Nhà
khoa học Việt
Tiếc rằng
hướng nghiên cứu của GS. Lê Nhâm Tuyết về sau không có người kế tục và phát triển
nên phải dừng lại và mãi hơn 10 năm sau mới được TS. Nguyễn Văn Việt, GĐ Trung tâm
Tiền sử Đông Nam Á, khởi động trở lại. Trong các cuộc khai quật khảo cổ học ở 2
di chỉ hang xóm Trại (Lạc Sơn, Hòa Bình, năm 1981) và mái đá Đú Sáng (Kim Bôi,
Hòa Bình, năm 2004), ông đã nhặt được những thỏi đá lạ, nằm lẫn trong đống vỏ ốc
suối đít dài (giống Melania) cùng với xương thú và hạt quả cháy, vốn là
những thức ăn chính của cư dân trú tại đây thời xưa, dự đoán cách ngày nay từ 9.000
đến 20.000 năm, thuộc nền văn hoá Hoà Bình (Hình 1). Những thỏi đá đó có kích thước
chừng vài ba ngón tay, thành phần thạch học chủ yếu là sét, cát kết, bị phủ bên
ngoài bởi một lớp hydroxit sắt hay mangan màu sôcôla hoặc vàng do phong hoá,
trên bề mặt có những vết sước nông song song - dấu ấn tác động mài cạo của con
người. Về bản chất chúng hoàn toàn khác loại đá tại chỗ (là đá vôi), chứng tỏ chúng
được người xưa mang từ nơi khác đến, có thể là từ những vỉa trầm tích lục nguyên
cấu thành những đồi đất quanh vùng [11, 12]. Các nhà nghiên cứu đã lấy 4 mẫu đá
gửi đi phân tích. Kết quả cho thấy đá có thành phần chủ yếu là các khoáng vật
sét-caolin, chứa một số vi chất dinh dưỡng như Ca, Na, K, Mg, Fe, Mn, Zn, P (Bảng
1).
Đối chiếu
thành phần những mẫu đá này với loại đá mà người Mãng (Yên Bái) dùng để ăn hiện
nay thấy chúng rất giống nhau. So sánh thêm với những thỏi đá cùng loại nhặt được
trong các di chỉ Đồng Vườn, Đa Bút và Cồn Cỏ Ngựa thuộc văn hoá Đa Bút - phân bố
chủ yếu ở Bắc Thanh Hoá và Ninh Bình, có tuổi cách nay 8000-5000 năm, thấy
chúng có thành phần tương tự. Từ đó các nhà khảo cổ học nhận định rằng những thỏi
đá lạ nhặt được trong các di chỉ trên chính là “đá ăn” của người xưa, chứng tỏ
tục ăn đất có ở người Việt cổ, ít ra là từ thời đại văn hoá Hòa Bình và truyền
qua thời Hùng Vương đến tận ngày nay (Phải chăng vì thế mà tục này hiện nay vẫn
còn được bảo tồn khá tập trung tại miền đất Tổ và lân cận như một nét văn hoá cổ
truyền?).
Bảng 1. Thành
phần hoá học của cuội tại hang Đú Sáng và Xóm Trại (mẫu M4, M5, M7, M11) so
sánh với đá ăn của người Mãng ở Yên Bái hiện nay (mẫu M8) [11, 12].
TT |
Mẫu |
SiO2 |
Al2O3 |
Fe2O3 |
TiO2 |
CaO |
MgO |
K2O |
Na2O |
MnO |
P2O5 |
ZnO |
N |
C |
1 |
M4 |
0,98 |
21,1 |
1,71 |
0,08 |
2,35 |
0,09 |
3,54 |
0,5 |
0 |
2,232 |
0,0099 |
0,38 |
0,08 |
2 |
M5 |
62,78 |
20,43 |
5,62 |
0,8 |
0,39 |
0,84 |
3,15 |
0,5 |
0 |
0,004 |
0,0099 |
0,21 |
0,07 |
3 |
M7 |
1,08 |
22,34 |
0,33 |
0,01 |
0,39 |
0,09 |
6,82 |
0,03 |
0 |
3,25 |
0,0082 |
0,27 |
0,06 |
4 |
M11 |
60,02 |
23,03 |
6,2 |
0 |
0,39 |
0,74 |
2,37 |
0,03 |
0 |
0,524 |
0,0029 |
0,17 |
0 |
5 |
M8 |
15,15 |
27,96 |
32,2 |
6,62 |
1,95 |
0,74 |
1,04 |
0,03 |
0,04 |
0,89 |
0,0178 |
0,25 |
0,1 |
Một đóng góp đáng kể nữa
vào việc khơi dậy lại và phát hiện thêm tục ăn đất ở Việt
Hình 1.
Những thỏi đá nhặt được tại các di chỉ khảo cổ xóm Trại, Đú Sáng (M4, M11) so
sánh với thỏi đất đang được người Mông (Yên Bái) dùng để ăn (M8) (Ảnh Nguyễn
Việt).
Tiếp theo, một chuyến điền
dã “quy mô” nhất đã được ông tiến hành tại thị trấn Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Tại đó ông đã tiếp xúc với nhiều người dân địa phương để tìm hiểu về tục ăn đất
đã tồn tại ở đây từ lâu đời. Họ đều nói: “Cả làng cả nước đều ăn (đất), có
gì lạ đâu mà đưa lên báo?”. Nhiều người cho biết: “Nó dẻo và béo lắm”.
Trực tiếp trò chuyện với bà Nguyễn Thị Lạc (84 tuổi) - người ăn đất “sành điệu”,
đồng thời cũng là tay “thiện nghệ” nhất vùng trong việc chọn lựa, chế biến ngói
ăn, nhà báo được bà cho biết: “Ở chợ có đến mấy chục hàng bán loại đất ăn
(bà gọi là “ngói” ăn), mỗi lần đi chợ bà mua mấy lạng nhét vào túi áo, trên đường
về vừa đi vừa nhấm nháp, đến nhà thì chẳng còn viên nào sất!”. Bà còn hăng
hái dẫn nhà báo leo lên một ngọn đồi, đến bên một ụ đất sót nhô cao, dưới chân
nó có một hố sâu là nơi người ta đào xúc lấy đất đem về chế biến thành ngói ăn
(Hình 3). Bà cũng khoét từng vỉa đất, chọn ra những thớ nhẵn, “nạc” mời nhà báo
nhấm thử. Số đất đó bà mang về nhà xếp lên bếp và dùng lá ổi, lá sim đốt lên
hun, mùi khói xông lên thơm lừng (Hình 4, 5). Bà bảo phải chế biến như thế
“ngói” mới có vị ngon hơn. Bà còn cho biết không riêng gì ở thị trấn Lập Thạch
mà hầu hết các chợ khác ở Việt Trì, Vĩnh Tường, Phong Châu … cũng đều bán “ngói
ăn” như bán bánh kẹo, hàng “đắt như tôm tươi”. Cũng có tin là ở làng bên, người
ta san cả ngọn đồi và đào hố sâu đến hàng chục mét để lấy đất làm “ngói ăn”.
Hình
2. Hang đất ở bản Đoàn Kết, xã Chung Chải,
huyện Mường Nhé (Điện Biên), nơi người Hà Nhì đào xúc “đất ăn” (phải) và thỏi đất
dùng để ăn (trái) (Ảnh Doãn Hoàng).
Như vậy là tục ăn đất đã
và đang tồn tại thực sự ở Việt Nam, nhưng về mức độ phổ biến của nó thì chưa có
đủ căn cứ để đánh giá nên ở đây, trên cơ sở tổng hợp những tin tức rời rạc trên
các phương tiện thông tin đại chúng cũng như theo lời đồn đại truyền miệng nghe
được, chúng tôi tạm lập một sơ đồ phân bố các địa điểm có tục ăn đất ở miền Bắc
(Hình 6). Chắc chắn không thể đầy đủ và chính xác, song thiết tưởng cũng có ý
nghĩa “chỉ điểm” cho những nghiên cứu tiếp theo.
Từ những điều trình bày ở
trên, có thể rút ra một số nhận xét chung về những biểu hiện đặc trưng của tục
ăn đất như sau:
1. Nhìn chung những người
nghiện đất thuộc đủ các đối tượng, nhưng thường gặp hơn ở phụ nữ, trẻ em và tầng
lớp người nghèo ở nông thôn, miền núi.
2. Đất ăn không phải lấy
bất kỳ mà được chọn lọc kỹ từ những nguyên liệu tinh khiết, hạt mịn, đồng nhất,
màu sắc tươi sáng (trắng, nâu, phớt xanh, vàng…), mềm dẻo, mùi vị dễ chịu, dân
gian gọi là “đất nạc”. Đó thường là sét, caolin, montmorillonit, bentonit, bùn
quánh đáy sông, hoàng thổ… Đất có thể dùng ở dạng tự nhiên hoặc phải qua chế biến
(nung, hun khói, trộn thêm hương liệu, đường, muối, nấu kèm với thức ăn, nén ép
thành thỏi, đóng hộp…).
3. Vị trí lấy đất ăn thường
chỉ tập trung ở một số địa điểm xác định, đã trải qua kinh nghiệm sử dụng từ
lâu đời, qua nhiều thế hệ, bảo đảm an toàn sức khỏe và tác dụng sinh học tốt.
Vì vậy, để lấy được đất ăn “ngon”, có khi người ta (và cả thú hoang) phải đi rất
xa, đến những nơi hiểm trở mới tìm được.
4. Việc ăn đất có thể biểu
hiện thường xuyên, lâu dài, nhưng cũng có khi chỉ xảy ra trong điều kiện nhất định
(như phụ nữ trong kỳ thai nghén hay cho con bú, khi xảy ra nạn đói, khi mắc bệnh…).
5. Mức độ thèm đất và lượng
đất ăn thường thay đổi theo mùa: nhu cầu tăng vào mùa thu-đông (rét buốt), giảm vào mùa hè (nóng bức).
6. Sự phân bố của tục ăn
đất thường có tính cộng đồng, ở quy mô bộ tộc, thôn bản, nhưng cũng có khi chỉ
thấy ở từng cá thể riêng lẻ.
III. THỬ TÌM CĂN
NGUYÊN CỦA TỤC ĂN ĐẤT
Tục ăn đất là một hiện
tượng phức tạp mà căn nguyên của nó còn có những kiến giải khác nhau:
Hình 3. Nơi khai thác đất làm “ngói ăn” tại Lập Thạch,
Vĩnh Phúc
(Ảnh: Doãn Hoàng).
Hình 4. “Hì, nó (ngói ăn) ngon lắm, thơm, bùi như miếng
gan lợn, có thể ăn hàng rổ một lúc”
(Ảnh: Doãn Hoàng)
Hình 5. Biểu diễn hun ngói ăn bằng lá ổi, lá sim (Ảnh:
Doãn Hoàng).
Hình 6. Một số vùng
có tục ăn đất ở miền Bắc (theo thông tin báo chí) |
1. Mường Nhé,
Điện Biên; |
|
|
2. Bát Xát, Lào Cai; |
|
||
3. Thuận
Châu, |
|
||
4. Nghĩa Lộ, Yên Bái; |
|
||
5. Trạm Tấu, |
|
||
6. Việt Trì, Phú Thọ; |
|
||
7. Phong Châu, |
|||
8. Lập Thạch, |
|||
9. Tam Dương, |
|
||
10. Vĩnh Tường, |
|
||
- Do nhu cầu bổ sung vi chất dinh dưỡng cho cơ
thể hay chữa bệnh;
- Để khử độc trong thực phẩm hay giải độc khi ăn
phải thực phẩm có độc tố;
- Để “đánh lừa” dạ dày, tạo cảm giác “no” trong
thời kỳ đói kém;
- Do thói quen hình thành từ phong tục cộng đồng
và yếu tố tín ngưỡng-tâm linh;
- Biểu hiện của sự hồi tổ do gen di truyền từ tổ
tiên xa xưa-loài vượn người;
- Để giải tỏa căng thẳng
về thần kinh hay tâm lý v.v., ...
Dưới đây xin thử phân
tích một số kiến giải chính, xét từ những góc độ khác nhau.
1. Ăn đất để bổ
sung vi chất dinh dưỡng cho cơ thể và chữa bệnh
Theo quan điểm địa chất
y học, tục ăn đất được xem là biểu hiện của sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng
trong cơ thể, đòi hỏi phải được bổ sung chúng để lập lại thế cân bằng dinh dưỡng
(nutritional balance) hay chữa trị các chứng bệnh rối loạn dinh dưỡng
(nutritional disorders). Chúng ta biết rằng, để tồn tại và phát triển, cơ thể
người và động vật nói chung, phải được cung cấp đầy đủ những chất dinh dưỡng,
trong đó ngoài protid, lipid, glucid, vitamin (chất dinh dưỡng hữu cơ) còn có
các muối khoáng và nguyên tố vi lượng (chất dinh dưỡng vô cơ) như C, H, O, N,
Ca, Na, K, Mg, Cl, S, Fe, Mn, Cu, Mo, Co, P, Se, I, Zn… Tuy nhu cầu của cơ thể
về muối khoáng và nguyên tố vi lượng rất ít, nhưng chúng có vai trò cực kỳ quan
trọng đối với sự sống. Thiếu chúng cơ thể sẽ bị suy dinh dưỡng, dễ phát sinh bệnh
tật hay tử vong. Thí dụ: thiếu sắt dẫn đến bệnh thiếu máu, thiếu iod phát sinh
bệnh bướu cổ, đần độn; thiếu fluor xuất hiện bệnh sún răng, xốp xương.
Muối khoáng và các
nguyên tố dinh dưỡng thường tồn tại trong đất đá với hàm lượng khác nhau tùy
theo vùng địa lý. Chúng được cây cỏ hấp thụ và lưu giữ trong thân, lá, hoa quả,
rễ củ. Nơi nào đất đá chứa nhiều muối khoáng và nguyên tố vi lượng thì cây cỏ mọc
ở đó cũng giàu những chất này và ngược lại. Các chất dinh dưỡng vô cơ đi vào cơ
thể người và động vật theo các loại thức ăn có nguồn gốc thực vật (ngũ cốc, rau
quả…) và nguồn gốc động vật (thịt, cá, trứng, sữa…). Như vậy giữa cơ thể người
và động thực vật trong tự nhiên hình thành nên một chuỗi dinh dưỡng liên tục, nếu
bị gián đoạn, chẳng hạn, bị ngừng cung cấp một số nguyên tố thiết yếu do nạn
đói, thì lúc đó người ta tự nhiên cảm thấy thèm khát một cách lạ lùng một thức
ăn nào đó, có khi rất "kỳ quặc" như lá cây, gạch ngói, than gỗ, vải,
giấy, phấn viết, vữa trát tường…, buộc phải tìm ăn cho được. Ngôn ngữ dân gian
gọi đó là chứng "ăn dở" (pica) mà ta thường thấy ở phụ nữ
trong thời kỳ thai nghén. Hoặc ta cũng từng nghe trong thời kỳ kháng chiến gian
khổ, bộ đội ta hoạt động ở miền rừng núi thiếu muối đến mờ mắt, chân tay bủn rủn,
không leo dốc nổi, buộc phải đốt cỏ gianh lấy tro ăn. Tuy hàm lượng muối trong
đó chẳng có là bao nhưng cũng bớt được phần nào cơn đói muối, giúp phục hồi sức
khỏe.
Liên hệ thực tế với đặc
điểm môi trường địa hóa vùng Lập Thạch ta thấy những mẩu đất ăn do Trung tâm Tiền
sử Đông Nam Á lấy tại đây có chứa một số nguyên tố dinh dưỡng có thể có ích cho
cơ thể (Bảng 1). Để kiểm tra một lần nữa, nhà khoáng vật học Kiều Quý Nam (Viện
Địa chất, Viện Khoa học và Công nghệ VN) đã tiến hành một cuộc khảo sát thực địa
cũng tại vùng thị trấn Lập Thạch. Địa hình ở đây có dạng đồi sót, tạo nên từ
các thành tạo địa chất thuộc hệ tầng Thác Bà (PR3-ε1 tb),
thành phần thạch học chính là các loại đá phiến thạch anh - sericit-chlorit,
quarzit, được phủ lên trên bởi trầm tích Neogen hệ tầng Phan Lương (N1 pl)
(?) gồm cuội kết, cát kết, đá phiến sét và sét than. Mặt cắt địa chất tại điểm
khảo sát ở trung tâm thị trấn, cách trụ sở Công an huyện khoảng 200 m gồm 4 lớp
kể từ dưới lên như sau [7]:
1. Sét rất mịn, màu xám trắng, phần quan sát được
dày 0,5 m, không quan sát được phần đáy (A1).
2. Đá phiến sét, sét bột kết màu xám vàng, dày
1-2 m (A2).
3. Đá phiến sét, sét bột kết, xen ít cát kết hạt
mịn, bề dày thay đổi trong khoảng 0,5-1,5 m (A3).
4. Trên cùng là lớp đất sét lẫn cát, chứa ít kết
vón sắt màu vàng xám, bề dày thay đổi từ 0,5 đến 5 m.
Mẫu đất được lấy từ lớp
A1 là loại sét rất mịn, tương tự các tảng thạch rau câu màu trắng xám, trắng,
không có dấu vết phân phiến. Khi sờ có cảm giác rất mát, trơn. Khi nếm không có
mùi, vị hơi mặn, dính chặt vào lưỡi, do độ hạt rất mịn nên nhanh chóng tan biến
trong miệng. Chính vì đặc điểm đó mà dân địa phương phải đào hố sâu, tìm tới tầng
đất "nạc" này để lấy về làm ngói ăn.
Mẫu đất được phân tích tại
các Phòng Thí nghiệm thuộc Cục Địa chất và Khoáng sản VN và Viện Địa chất thuộc
Viện KHCN VN có thành phần trung bình như sau (%): SiO2 = 59,5; TiO2
= 0,62; Al2O3 = 23; Fe2O3 = 3,24;
MgO = 1,17; CaO = 0,62; K2O
= 3,2; Na2O = 0,01; Zn < 0,001; Pb < 0,001; MKN = 6.
Xét về mặt thạch học và
khoáng vật, mẫu đất ăn là một loại đá sét, có thành phần chủ yếu là smectit,
hydromica (illit), halloysit và thạch anh. So sánh với những mẫu đất trước đây
(Bảng 1) thấy chúng khá giống nhau. Trong quá trình chế biến "ngói" bằng
cách hun khói, những thỏi đá được hấp thụ hương vị từ các loại lá rừng (sim,
mua, ổi…dùng làm chất đốt), tạo nên một mùi thơm hấp dẫn. Có lẽ đó cũng là một
yếu tố tạo nên "phản xạ có điều kiện", gây cảm giác "thèm" khi
ngửi thấy mùi vị đặc trưng này.
Rất tiếc là công trình
nghiên cứu của TS. Kiều Quý Nam vẫn chỉ nhằm mục đích đơn thuần về địa chất -
khoáng vật học, thiếu sự đồng bộ với những nghiên cứu về dinh dưỡng, sinh y học,
nên chưa có đủ cứ liệu thực tế để luận giải một cách thuyết phục về mối quan hệ
giữa thói quen ăn đất với môi trường địa hóa địa phương. Dẫu sao dựa trên các kết
quả nghiên cứu của nước ngoài và trên cơ sở lý thuyết về địa hóa sinh thái và địa
chất y học, ta có thể tin rằng mối quan hệ đó là hiện hữu.
Ở động vật, thói quen
nghiện đất cũng là biểu hiện của nhu cầu bổ sung vi chất dinh dưỡng. Đối với những
loài thú hoang dã sống trong môi trường thiếu hụt khoáng chất thiết yếu, chúng
thường mắc bệnh hoặc chậm phát triển. Để duy trì cuộc sống bình thường theo tập
tính di truyền, chúng biết di cư đến những nơi có yếu tố dinh dưỡng thuận lợi. Ở
những công viên quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên, để đáp ứng nhu cầu "ăn
đất" của muông thú, người ta thường đặt rải rác trên đồng cỏ hay trong rừng
những khối "muối liếm" (salt-lick hay mineral-lick) chế biến từ
nguyên liệu đất sét, caolin…pha trộn với những khoáng chất thiết yếu mà chúng
ưa thích. Trong ngành chăn nuôi người ta cũng thường áp dụng phương pháp rải
"muối liếm" trong trang trại để phòng ngừa bệnh tật và tăng năng suất
cho gia súc.
Tuy nhiên, trong khi thừa
nhận mối quan hệ giữa tục ăn đất với môi trường địa phương cũng không nên hiểu
vấn đề một cách giản đơn rằng địa phương nào có môi trường địa chất (và theo đó
thức ăn, nước uống) không đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho cơ thể người thì địa
phương đó ắt có tục ăn đất! Bởi vì ngày nay, khi sự giao lưu kinh tế mở rộng,
thì mối liên hệ giữa phông địa hóa địa phương với hàm lượng vi chất dinh dưỡng
trong thức ăn không còn chặt chẽ như trong nền kinh tế tự cung tự cấp theo kiểu
"trâu ta ăn cỏ đồng ta" nữa. Mặt khác, sự đầy đủ hay thiếu hụt các
nguyên tố dinh dưỡng trong cơ thể người, ngoài nguyên nhân Clarke địa phương của
các nguyên tố, còn có những tác động khác, nhiều khi rất phức tạp, như hoàn cảnh
địa hóa (pH, Eh), các rào cản địa hóa (geochemical barriers), sự có mặt trong
môi trường những chất "cộng hưởng" hay "cản trở", tính hiệu
dụng sinh học (bioavailability) của các nguyên tố dinh dưỡng (hay độc hại), …
Ngoài những nhân tố tự
nhiên nêu trên, còn có thể có những tác nhân xã hội - nhân văn như đặc điểm dân
tộc học, phong tục tập quán, kể cả tập quán ẩm thực, lối quần cư của cộng đồng,
… cũng là căn nguyên, có khi đóng vai trò quyết định của tục ăn đất. Điều đó có
nghĩa là trong việc đi tìm căn nguyên của tục ăn đất, nếu chỉ thiên về một yếu
tố môi trường tự nhiên thì có khi không tránh khỏi bế tắc, mà còn phải chú ý một
cách toàn diện đến các yếu tố xã hội - nhân văn và cả tín ngưỡng tâm linh (sẽ
nói ở dưới).
2. Ăn đất để khử độc
trong thực phẩm và chữa trị khi bị ngộ độc
Tục ăn đất cũng có khi
xuất phát từ kinh nghiệm khử độc thực phẩm. Chúng ta biết rằng trong một số thực
phẩm nguồn gốc thực vật (rau, củ, trái, hạt, nấm…) thường chứa những chất có thể
gây ngộ độc, thậm chí tử vong nếu ăn phải. Để bảo đảm an toàn sức khỏe, người
ta phải áp dụng các biện pháp loại trừ độc tố, trong đó theo kinh nghiệm dân
gian, có một cách rất hữu hiệu: dùng đất sét. Ví dụ: một số thổ dân Nam Mỹ có
thói quen khi nấu khoai tây thường trộn thêm đất sét để khử glycoalkaloid - một
loại chất độc có trong mầm những củ để lâu ngày. Người Ainu ở Nhật Bản khi nấu
súp rau củ bao giờ cũng cho thêm đất sét để khử độc, giống như ta tra bột nêm.
Dân địa phương vùng
3. Ăn đất để
"đánh lừa" dạ dày trong thời kỳ đói kém
Đây cũng là một thảm cảnh
từng thấy ở tầng lớp dân nghèo, nhất là trong thời buổi đói kém do thiên tai, địch
họa. Khi đó người ta dùng đất như một "thức ăn" để tạm thời xoa dịu
cơn đói. Ví dụ: ở
Ở nước ta chắc hẳn nhiều
người đã từng đọc bài phóng sự “Làm no” (hay “Cái ăn trong những ngày nước
ngập") của nhà văn Ngô Tất Tố, lần đầu đăng trên báo “Thời vụ” tháng
5/1938, kể chuyện ăn đất diễn ra trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám 1945 ở
một vùng quê nghèo sau một trận lũ lớn gây mất mùa, đói kém. Bài viết mô tả tỉ
mỉ cách chế biến "thức ăn" của một người dân cùng đinh tên là bác Tụy
mà tác giả đã tận mắt chứng kiến: đó là cách tráng "bánh đa" bằng đất
sét và "kho đất" với tép vụn để ăn thay cơm. Những món "đặc sản"
đó quả là khó nuốt, nhưng cũng được lũ trẻ con "xô nhau bẻ lấy mà ăn một
cách ngon lành". Cảnh tượng thật đau lòng nhưng người trong cuộc - bác
nông dân Tụy - thì vẫn hồn nhiên hài hước: "người ta bảo chết thì ăn đất,
nhưng chính nhà cháu sống về đất đấy ông ạ!" khiến người đọc phải bật
cười, nhưng đó là nụ cười đẫm nước mắt.
4. Tục ăn đất - một
nét văn hóa trong đời sống tinh thần của xã hội loài người
Ngoài những căn nguyên
nêu trên (hoặc đồng thời với chúng), tục ăn đất có thể hình thành từ phong tục
cộng đồng và yếu tố tín ngưỡng - tâm linh lưu truyền từ xã hội nguyên thủy đến
tận ngày nay. Điều đó có lẽ là đặc trưng cho hiện tượng ăn đất ở Lập Thạch (và
những vùng khác tương tự), nơi mà tục này không còn là biểu hiện của sự nghèo
đói như ngày xưa nữa. Đất ở đây theo tâm tưởng của người tiền sử là biểu tượng
thiêng liêng, là "nguồn sống tuyệt đối cho những cư dân nông nghiệp"
[8]. Vì vậy việc đãi khách quý đến nhà bằng đĩa "ngói" để tỏ lòng
kính trọng, hoặc "việc hôn nhân lấy gói đất làm đầu" đều là những
nghi thức tượng trưng trong văn hóa giao tiếp, bắt nguồn từ sự sùng bái đất
thiêng, và cũng từ đó hình thành nên thói quen ăn đất trong cộng đồng như sự thừa
kế một tập tục cổ truyền của tổ tiên, tương tự tục ăn trầu, nhuộm răng, xăm
mình…
Cũng vậy, theo một số
công trình nghiên cứu xã hội học về tục ăn đất của những người da đen Nam Mỹ gốc
Phi, các nhà khoa học cho rằng thói quen ăn đất trong cộng đồng cư dân ngoại
lai này không đơn thuần do đói hay nhu cầu dinh dưỡng mà còn là một biểu hiện
tín ngưỡng với niềm tin thiêng liêng rằng khi nuốt một miếng đất (có lẽ nhận được
từ quê hương), gọi là "Terra santa" (đất thánh) thì họ đã giữ trong
cơ thể mình một chút ít hình hài của đất mẹ thân thương, để sau khi chết, linh
hồn sẽ được "Mẹ Đất" dẫn dắt trở về cố quốc Phi Châu trùng dương cách
trở [2].
5. Tục ăn đất - biểu
hiện của sự hồi tổ
Theo các nhà nhân chủng
học và khảo cổ học, thói quen ăn đất đã có ở người tiền sử và cả tổ tiên xa xưa
của họ. Điều đó đã được chứng minh bởi các công trình khai quật một số nơi cư
trú của người xưa. Ví dụ tại điểm khai quật di chỉ cư trú của giống Người vượn Homo
habilis tại
6. Ăn đất như một
thói quen hoặc để giải tỏa căng thẳng
Ăn đất ngoài những căn
nguyên mang tính cộng đồng như trên, có thể gặp những trường hợp riêng biệt, xảy
ra ở từng cá thể như có người thích ăn đất chủ yếu do thói quen: lúc nào cũng
thích nhấm nháp một cái gì đó cho đỡ "buồn mồm" như ăn trầu, hút thuốc,
nhai kẹo cao su, hay tật mút tay ở trẻ em…, hoặc có người ăn đất chỉ để giải tỏa
căng thẳng về thần kinh hay tâm lý khi có chuyện phiền muộn hay thấp thỏm đợi
chờ một điều gì đó.
IV. TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC
CỦA TỤC ĂN ĐẤT
Từ những điều phân tích
nêu trên ta thấy tục ăn đất có nhiều căn nguyên và những tác dụng khác nhau,
trong đó có tác dụng bổ sung vi chất dinh dưỡng cho cơ thể và giải độc thực phẩm.
Tuy nhiên, theo cảnh báo của các nhà khoa học, việc ăn đất cũng tạo ra nguy cơ
nhiễm những chất độc hại như As, Hg, Pb, Cd, U, Ra… cùng trứng giun và vi khuẩn
gây bệnh nguy hiểm. Mặc dù khi trả lời phỏng vấn của báo chí hoặc ghi phiếu điều
tra của các nhà khoa học về tình trạng sức khỏe, bệnh tật liên quan đến thói
quen ăn đất, phần lớn những người "nghiện" đều cho rằng "không
có biến cố gì xảy ra cả", nhưng những nhận định cảm tính như vậy không
đủ sức biện hộ cho tính "vô hại" của loại “thực phẩm” này. Bởi vì có
thể các loại đất ăn đã được lấy một cách có chọn lọc, tại những vị trí nhất định,
trải qua kinh nghiệm thực tiễn lưu truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau, bảo
đảm độ an toàn vệ sinh nên không xảy ra tai biến rõ rệt. Nhưng hiện nay, khi mà
môi trường khắp nơi đang bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi những tác nhân tự nhiên
cũng như nhân tạo, khiến cho không có một nơi nào trên mặt đất, kể cả những
vùng có "mỏ đất ăn" cổ truyền, còn giữ được sự tinh khiết nguyên thủy
nữa thì không ai có thể đảm bảo tìm được một vị trí lấy đất ăn hoàn toàn tin cậy.
Mặt khác, có thể "không có biến cố gì xảy ra" là do những độc tố có mặt
trong đất ăn thuộc loại chất độc tích lũy (cumulative toxins) với
hàm lượng thấp, chưa đủ gây ngộ độc cấp tính, rõ rệt. Nhưng qua sử dụng lâu
dài, chúng tích lũy dần trong cơ thể, đến lúc vượt "ngưỡng" mới trở
thành tác nhân gây bệnh. Trong trường hợp đó, chỉ có những nghiên cứu chuyên
môn mới phát hiện được. Vì vậy, không nên khuyến khích việc sử dụng trực tiếp đất
tự nhiên mà phải trải qua chế biến để loại trừ các chất độc hại. Thực tế trong
y học, người ta đã bào chế ra những loại thuốc bằng nguyên liệu đất sét trắng,
caolin, montmorillonit, bentonit, natron…, có pha trộn một số khoáng chất dinh
dưỡng, vitamin, đường, sôcôla, hương liệu…, nén thành thỏi, viên hay đóng hộp
bán ra thị trường dưới các nhãn hiệu: bicana (bicarbonat natri), alusi
(alumosilicat), cholacol II, naturclay (Hình 7)… để đáp ứng nhu cầu của những
người nghiện đất và chữa bệnh, chủ yếu là bệnh dạ dày (thừa dịch vị), đường tiết
niệu, gan mật… Đó thực chất cũng là cách ăn đất "cải tiến".
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN
NGHỊ
Tục ăn đất là một hiện
tượng phức tạp và nhạy cảm. Mặc dù nó đã bắt nguồn từ thuở sơ khai của nhân loại
và hiện còn phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới nhưng đến nay vẫn bị xem là
"chuyện lạ" và bị xã hội nhìn dưới con mắt kỳ thị. Thực ra đây chỉ là
hiện tượng sinh học bình thường, biểu hiện sự thiếu hụt muối khoáng và vi chất
dinh dưỡng của cơ thể, đòi hỏi phải bổ sung để đảm bảo nhu cầu sinh lý của con
người cũng như động vật. Đồng thời nó cũng có thể là một tập tính di truyền, một
nếp văn hóa trong sinh hoạt, giao tiếp hoặc một yếu tố tín ngưỡng - tâm linh.
Do vậy tục ăn đất là đối tượng nghiên cứu của cả khoa học xã hội lẫn khoa học tự
nhiên và vì thế trong việc nghiên cứu nó phải có cái nhìn khoa học và toàn diện,
khách quan, tránh mọi thiên kiến, áp đặt. Tuy nhiên, cũng không nên khuyến
khích hay bàng quan, do tục ăn đất cũng có mặt tiêu cực là có thể gây nhiễm độc,
nhiễm khuẩn cho cơ thể. Để đảm bảo cho cả hai yêu cầu trên cần phải có sự nghiên
cứu nghiêm túc. Vì lẽ đó việc mở một chương trình nghiên cứu về tục ăn đất ở nước
ta, được thực hiện độc lập hoặc theo một đề tài nằm trong một chương trình rộng
lớn hơn về địa chất y học là rất cấp thiết. Muốn đạt hiệu quả cao cần có sự phối
hợp chặt chẽ giữa các ngành khoa học hữu quan: địa chất, y tế, sinh học, sử học,
dân tộc học… và các địa phương sở tại. Về phương diện địa chất học, với chức năng
của mình, các nhà địa chất có thể đảm nhiệm việc nghiên cứu các vấn đề địa chất
- khoáng vật, địa hóa môi trường, địa chất sinh thái, địa chất y học có liên
quan với tục ăn đất bằng việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn như:
- Tiến hành khảo sát thực
địa, lấy và phân tích mẫu (đất đá, nước, thực vật, lương thực, thực phẩm…), tổng
hợp xử lý tài liệu và lập bản đồ địa sinh thái, địa hóa môi trường, địa chất y
học những địa phương có tục ăn đất.
- Nghiên cứu thành phần
thạch học, hóa học, khoáng vật học của các loại đất đá được sử dụng để ăn hiện
tại và tồn lưu trong các di chỉ khảo cổ.
- Tham gia cùng với các nhà
sử học, dân tộc học, y học tìm hiểu đặc điểm của những người nghiện đất về giới
tính, lứa tuổi, dân tộc, mức sống, trạng thái sức khỏe, bệnh tật, tập tục sinh hoạt,
các loại lương thực thực phẩm chủ yếu thường sử dụng, chế độ dinh dưỡng… và so
sánh với những người không ăn đất trong vùng.
|
Hình 7. Thí dụ về các sản phẩm đất ăn hiện đang
được sản xuất và tiêu thụ. Heilerde (healing soil) được bày bán ở Đức, vừa để
ăn, vừa để bôi ngoài da. Các viên thuốc hình trụ được bán ở Kampala, Uganda [2]. |
- Dựa trên các kết quả
nghiên cứu, giải thích mối liên hệ giữa môi trường địa chất - địa hóa với sức
khỏe, bệnh tật và ảnh hưởng của tục ăn đất đến cơ thể người và động vật. Từ đó
xác định nhận thức khoa học đúng đắn về tục này để đề xuất với các cơ quan chức
năng có chủ trương thích hợp trong công tác quản lý về mặt văn hóa - xã hội
cũng như sức khỏe cộng đồng liên quan với tục ăn đất.
VĂN LIỆU
1. Abrahams P.W., 1996. Geophagy in the
tropics: A literature review. The Geogr. J., 162.
2. Abrahams P.W., 2003. Human geophagy: A
review of its distribution, causes and implications. Geology and Health -
Closing the Gap.
3. Bowell R.J. et al., 1996. Formation of cave salts
and utilisation by elephants in the Mount Elgon region,
4. Doãn Anh, 2005. Chuyện về những người
nghiện đất. Báo An ninh thế giới, 443, Hà Nội.
5. Halsted J.A., 1968. Geophagia in man: Its
nature and nutritional effects. The Amer. J. of Clin. Nutrition, 21.
6. Hunter J.A., 1973. Geophagy in Africa and
the
7. Kiều Quý
8. Lê Nhâm Tuyết, 1970. Về chế độ và phong tục
hôn nhân thời Hùng Vương "Việc hôn nhân lấy gói đất làm đầu". Hội
nghị lần thứ III về Hùng Vương dựng nước. Hà Nội.
9. Lê Văn Lan, 2004. Tại sao "Việc hôn
nhân lấy gói đất làm đầu"? Báo Khoa học và Đời sống, 85/1698. Hà Nội.
10. Nguyễn Phúc Giác Hải,
2005.
Người ăn những vật lạ. Báo Khoa học và Đời sống, 44/1763, Hà Nội.
11. Nguyễn Thùy Dương,
Nguyễn Việt, 2005.
Phân tích thạch học mẫu đá sét do người Mãng ăn và trong tầng văn hóa Hòa Bình.
BC tại Hội thảo KH "Thói quen ăn đất đá ở Việt
12. Nguyễn Việt, Nguyễn
Thùy Dương, 2005.
Đá ăn trong văn hóa tiền sử Việt
13. Sheppard S.C, 1998. Geophagy: Who eats
soil and where do possible contaminants go? Envir. Geol., 33/2-3.
14. Võ Công Nghiệp, 2002. Chứng "nghiện đất":
Biểu hiện của sự thiếu vi chất dinh dưỡng. Thông tin KHKT ĐC. Loạt chuyên đề:
Những vấn đề địa chất sinh thái. IV: Địa chất Y học. Hà Nội.
15. Võ Công Nghiệp,
Dương Đức Kiêm, Trần Tân Văn, 2005. Tục ăn đất nhìn từ góc độ địa chất học. BC
tại Hội thảo KH "Thói quen ăn đất đá ở Việt
16. Võ Công Nghiệp,
Dương Đức Kiêm, Trần Tân Văn, Nguyễn Việt, 2005. Tục ăn đất - một đối
tượng nghiên cứu của Địa chất Y học. Tuyển tập BC HNKH 60 năm Địa chất Việt