QUẶNG URANI VÀ KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG
CHO PHÁT TRIỂN ĐIỆN HẠT NHÂN Ở VIỆT
1NGUYỄN QUANG HƯNG, 2NGUYỄN PHƯƠNG, 1BÙI
TẤT HỢP
1Liên đoàn Địa chất Xạ-Hiếm, Xuân Phương, Từ Liêm,
Hà Nội
2Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội
Tóm tắt: Kết quả điều tra của ngành Địa chất trong thời gian qua cho thấy Việt
Nam là nước có tiềm năng về urani với nhiều loại hình, phân bố trong nhiều cấu
trúc địa chất ở hai miền Bắc Bộ và Trung Bộ. Tài nguyên, trữ lượng urani đang được
điều tra, thăm dò đáp ứng cho phát triển điện hạt nhân ở nước ta.
I. CÁC LOẠI HÌNH QUẶNG URANI VIỆT
1. Các loại hình quặng urani ở Việt Nam
Theo cách phân loại của Uỷ ban Năng lượng
nguyên tử Quốc tế, các tụ khoáng urani của Việt Nam ứng với các kiểu dưới đây:
1. Urani trong cát kết; 2. Urani dạng mạch hoặc gần dạng mạch; 3. Urani trong
đá phun trào; 4. Urani trong đá biến chất; 5. Urani trong than; 6. Urani trong
trầm tích Đệ tứ [1].
a. Quặng urani trong cát
kết:
Theo tài
liệu hiện có, kiểu quặng urani trong cát kết ở võng Nông Sơn (Quảng
- Khu Pà Lừa: Kết
quả công tác đánh giá tỷ lệ 1: 2.000 cho thấy trong khu Pà Lừa có 3 lớp đá chứa
quặng. Tổng hợp các tài liệu cho thấy các dị thường xạ hầu hết nằm trong các đá
của phân hệ tầng dưới hệ tầng An Điềm (T3n ad). Theo các kết
quả đánh giá, phân tích cũng như các quan sát trên mặt và dưới sâu, có thể xếp
các dị thường xạ vào 3 lớp đá chứa quặng. Trong các lớp đá này có các thân quặng
và trong các thân quặng có các thấu kính quặng. Hàm lượng U3O trung bình trong các thân quặng
là từ 0,031 đến 0,095 %, biến đổi rất không đồng đều. Chiều dày thay đổi từ 1 đến
3,5 m, biến đổi rất không ổn định. Trong quá trình thi công đề án tìm kiếm đánh
giá, đã lấy
mẫu công nghệ.
Kết quả nghiên cứu thành phần vật chất quặng
cho thấy tập hợp các khoáng vật urani đã phát hiện ở Pà Lừa gồm các khoáng vật
nasturan và nasturan ngậm nước, coffinit, uranophan, sođđyit,
uranocircit-metauranocircit, autunit, metaautunit và metaautunit ngậm nước,
phosphuranylit và bassetit [4].
- Khu Pà
Rồng: Khu Pà Rồng nằm gần khu Pà Lừa và là phần kéo
dài các lớp đá chứa quặng từ Pà Lừa. Kết quả đánh giá đã khoanh định được 3 lớp
đá chứa quặng. Các lớp đá chứa quặng urani nằm trong phân hệ tầng dưới hệ tầng
An Điềm (T3n ad), trong các đá sạn
kết, cát kết hạt thô đến nhỏ màu xám. Quặng urani chủ yếu tập trung trong các
đá hạt thô đến trung bình màu xám. Kết quả phân tích mẫu hoá cho thấy hàm lượng
U3O8 trong 244 mẫu
đơn thay đổi từ 0,006 đến 1,43 %, trung bình đạt 0,075 %, trong đó có 230 mẫu
có hàm lượng U3O8 > 0,01 %, đạt
94,3 %. Hàm lượng
U3O8 trong các lớp
đá chứa quặng có hệ số biến thiên thay đổi từ 91 đến 137 %, phân bố thuộc loại
không đồng đều đến rất không đồng đều. Chiều dày trung bình của các lớp đá chứa
quặng có hệ số biến thiên thay đổi từ 66,3 đến 70 % thuộc loại tương đối ổn định.
Trong 3 lớp đá chứa quặng thì lớp đá chứa quặng số 1 nằm ở dưới cùng tuy có hệ
số biến thiên về chiều
dày và hàm lượng lớn, nhưng lại có hàm lượng U3O8 và bề
dày lớn nhất.
Đặc
điểm các khoáng vật urani: Kết quả phân tích các mẫu khoáng vật đã
lấy trong khu Pà Rồng đã xác định được các khoáng vật urani và được chia ra làm
2 nhóm: 1. Các khoáng vật urani nguyên sinh gồm: nasturan và nasturan ngậm nước,
coffinit ...; 2. Các khoáng vật urani thứ sinh gồm: uranophan, autunit, metaautunit và
metaautunit ngậm nước ...
-
Khu Đông Nam Bến Giằng:
Khu Đông Nam Bến Giằng được Liên đoàn Địa chất Xạ-Hiếm
điều tra ở tỷ lệ 1:25.000 trên diện tích 120 km2 và đánh giá ở tỷ lệ 1:2.000 trên diện tích 2 km2. Có 5 lớp
đá chứa quặng urani. Hàm lượng U3O8 từ
0,01 đến 0,19%.
Đá chứa quặng chủ yếu là các đá cát kết arkos
và grauwac felspat hạt nhỏ đến vừa, có màu xám, xám đen, xám vàng nâu, đôi khi
nằm ở ranh giới tiếp xúc của đá màu xám và đá màu xám vàng nâu. Quặng thường có
dạng ổ, thấu kính nhỏ, thường phân bố rất không đồng đều trong đá.
Các khoáng
vật urani gồm nasturan và nasturan ngậm nước, coffinit, uranophan, sođđyit,
uranocircit-metauranocircit, autunit, metaautunit và metaautunit ngậm nước,
phosphuranylit và bassetit. Các khoáng vật
đi cùng có pyrit, marcasit, galenit, sphalerit và các khoáng vật nhóm oxit,
hyđroxit sắt và mangan.
-
Khu An Điềm: Quặng
hoá urani ở khu An Điềm tập trung trong cát kết màu xám, xám đen, sau đó là sạn
cuội kết và bột kết. Urani phân bố trong các loại đá chứa quặng ở từng khu vực
riêng biệt thuộc vùng An Điềm: phân khu Cà Liêng, Sườn Giữa và An Điềm. Hàm lượng
urani cao ở sạn cuội kết, nhưng chiếm tỷ suất không lớn, khoảng 22,4-29,81 %,
trong khi cát kết chiếm tỷ suất cao nhất, nhưng hàm lượng thấp hơn. Hàm lượng
urani trung bình tăng dần theo chiều tăng của cấp hạt, ở phân khu Cà Liêng: bột
kết, cát kết-sạn cuội kết có hàm lượng tương ứng là 0,018; 0,021; 0,028 % U3O8 và tỷ lệ theo cấp hạt là: 29,6; 48,0; 22,4
%. Hàm lượng urani ở các phân khu khác cũng chủ yếu tập trung trong cát kết,
nhưng hàm lượng trung bình thấp (0,02-0,021 % U3O8). Riêng ở phân khu Đầu Gò (phía nam vùng) chủ yếu
là bột kết, hàm lượng trung bình giảm dần.
Hàm lượng
trung bình urani ở trong các lỗ khoan thấp hơn, nhưng phân bố ổn định hơn (V £ 100 %).
Ngoài các khu nêu trên, trong cát kết Núi Hồng (Thái Nguyên) cũng đã
phát hiện sự có mặt của urani. Trong tổng
số 13 lỗ khoan gặp cát kết, có 3 lỗ khoan có dị thường urani với chiều dày trên
35 m và hàm lượng U3O8 là 0,01 %.
b. Urani dạng mạch và gần
dạng mạch: Đây là loại quặng nhiệt
dịch có liên quan đến các các granit sáng màu thuộc vành đai tạo núi. Quặng ở dạng
lấp đầy các khe nứt. Ở Việt Nam, có các tụ khoáng và điểm quặng điển hình cho
kiểu này là urani trong tụ khoáng đất hiếm ở Nậm Xe (Lai Châu), Yên Phú (Yên
Bái) và urani đi với đồng ở Sin Quyền (Lào Cai).
- Khu Bắc
Nậm Xe: phân bố trên diện tích 4,12 km2, được Đoàn Địa chất 35 thăm dò đất hiếm
trong các năm 1968-1979. Urani gặp ở dạng xâm tán trong các thân đất hiếm và đá
vây quanh, nhưng tập trung chủ yếu trong các thân đất hiếm. Tụ khoáng có nguồn
gốc nhiệt dịch biến chất trao đổi. Có 2 loại quặng: apatit-uranpyrochlor và
baryt - carbonat - đất hiếm, trong đó, loại quặng thứ 2 là chính. Kiểu
apatit-uranpyrochlor ít phổ biến, thường tập trung thành ổ, mạch nhỏ. Mạng lưới
thăm dò đã áp dụng trong thăm dò đất hiếm là 100 × 100 m cho cấp
122 và 200 ×
200 m cho tài nguyên cấp 333.
Xét về
tài nguyên - trữ lượng, khu phía bắc Nậm Xe có trữ lượng lớn, kể cả tính riêng
cho từng hợp phần. Tuy nhiên, quặng ở đây thuộc loại nghèo, có thành phần vật
chất phức tạp. Mặc dầu vậy, việc xác định khả năng xử lý công nghệ quặng để thu
hồi tổng hợp các hợp phần, trong đó chú trọng đến urani, cũng đã được tiến
hành. Các kết quả thực nghiệm cho thấy để đạt được hiệu suất hòa tách urani, đất
hiếm, tới 90-95
% lượng tiêu tốn axit rất lớn.
- Khu
phía nam Nậm Xe: có cấu tạo địa chất không phức tạp, các
thân quặng có ranh giới không rõ ràng. Theo đường phương và hướng dốc, thân quặng
khá ổn định; chiều dài, bề dày của thân quặng và thành phần vật chất quặng duy
trì tốt. Điều kiện địa chất thuỷ văn, địa chất công trình tương đối đơn giản.
Quặng có hàm lượng đất hiếm và các hợp phần có ích cao. Các nghiên cứu tuyển
khoáng và công nghệ thu hồi kết hợp với các hợp phần TR2O3, Sr, BaSO4 đã được
tiến hành cho kết quả tốt. Riêng urani có hàm lượng thấp và ít có khả năng thu
hồi [5].
c. Urani trong đá phun
trào:
Ở Việt Nam, đã phát hiện các biểu
hiện khoáng hoá ở Tòng Bá (Hà Giang), Định An (Lâm Đồng), Bình Liêu (Quảng
Ninh), điển hình nhất là ở đới Tú Lệ (khu Tiang, Trạm Tấu). Đá chứa urani chủ yếu
là đá phun trào và trầm tích - phun trào có thành phần từ axit đến kiềm. Hàm lượng
urani thay đổi từ 0,01 đến 1 %. Các khoáng vật urani chính là uraninit,
uranophan, molybđat urani đi cùng với molybđenit. Công nghệ hoà tách thu hồi
urani từ loại quặng này, theo kinh nghiệm thế giới, nhìn chung đơn giản. Các
khu vực khoáng hoá này, tuy chưa đủ cơ sở để dự báo tài nguyên, nhưng liên hệ với
các tụ khoáng và mỏ tương tự trên thế giới thì rất có thể có quy mô đáng kể.
d. Urani trong đá biến chất: Công tác điều
tra, đánh giá của Liên đoàn Địa chất Xạ-Hiếm trong thời gian qua đã phát hiện
các biểu hiện khoáng hoá urani - thori nằm trong các đá biến chất trao đổi
(tremolit, actinolit) và trong pegmatit ở Thạch Khoán, Thanh Sơn (Phú Thọ),
trong pegmatit-migmatit ở Sa Huỳnh, Ba Tơ (Quảng Ngãi), trong đá hoa Làng Nhẽo
(Yên Bái); đặc biệt là urani trong đá phiến và graphit Tiên An.
- Điểm Thạch
Khoán - Thanh Sơn: Urani và thori
phân bố trong pegmatit và đá phiến hai mica với hàm lượng thấp, quy mô nhỏ [5].
- Urani
trong graphit Tiên An: Kết quả tìm kiếm, đánh giá của Liên đoàn
Địa chất Xạ-Hiếm (1983) đã dự tính tài nguyên cấp 333 cho urani trong graphit ở
phân khu trung tâm Tiên An và các phân khu Tiên Lập và Tiên Hiệp. Đặc trưng của
khu tụ khoáng Tiên An là urani phân tán mịn trong graphit ở dạng pitchblenđ, và
ở dạng vanađat urani (khoáng vật urani thứ sinh) và metauranocircit.
Kết
quả tìm kiếm tỷ mỷ vùng Tiên An cho thấy, ngoài urani trong các thân quặng
graphit công nghiệp, các loại đá cấu thành nên “tầng sản phẩm graphit” đều chứa
urani cao hơn trị số Clarke từ 15 đến 25 lần và đã tính được tiềm năng urani
trong tầng sản phẩm với hàm lượng trung bình là 0,0115 % U3O8. Tuy nhiên, nếu
lấy hàm lượng công nghiệp ³0,05 % U3O8 thì tài nguyên U3O8
trong tầng sản phẩm không đáng kể. Do vậy, khả năng tạo thành thân quặng
urani công nghiệp có ý nghĩa độc lập trên khu mỏ rất ít hy vọng [2].
e. Urani trong than: Trên thế giới thường thấy urani đi với than có
độ biến chất thấp (than nâu). Ở Việt
- Urani trong than Nông Sơn: Công tác tìm kiếm
urani tỷ lệ 1:10.000 trên diện tích 2,7 km2 và tỷ lệ 1:2.000 trên diện tích 0,5 km2 cho thấy, hàm lượng urani trong than thấp và
dao động rất lớn. Urani không hình thành thân quặng độc lập, nó chỉ được coi là
nguyên tố đi cùng với than dưới dạng nguyên tố có ích cần được thu hồi trong
quá trình khai thác và sử dụng than. Urani phân bố rất không đồng đều trong
than, nhưng trong loại than cứng (được gọi là than củ) hàm lượng U3O8 trung bình thường
đạt 0,01 % trở lên. Urani được tìm thấy dưới dạng muội urani (pitchblenđ) phân
tán mịn trong các hang hốc của than cùng với pyrit và các sulfur khác; ngoài ra
còn gặp các khoáng vật urani thứ sinh.
Trong mỏ
than Nông Sơn, ngoài urani còn có các nguyên tố đi kèm khác, trong đó các
nguyên tố có hàm lượng tương đối cao và thường xuyên gặp trong các mẫu là lithi
(gần bằng 50 lần Clarke), vanađi (7.10-3 - 200.10-3 %), arsen (1,5-3 lần
Clarke).
Việc nghiên cứu tách urani từ than Nông Sơn đã
được chú ý từ năm 1980. Đã thử nghiệm các phương pháp hoà tách urani từ tro
than theo các phương pháp thông thường và hoà tách bằng axit mạnh. Urani trong
than Nông Sơn rất nghèo. Nếu thu hồi urani từ than bằng
con đường hoá học thì kém hiệu quả kinh tế. Vì vậy, thu hồi urani ở đây có thể
bằng con đường làm giàu qua xỉ tro than như thử nghiệm của Viện Công nghệ xạ-hiếm.
Mặt khác, nếu urani ở đây không thu hồi được thì chính nó trở thành thành phần
có hại gây nên sự ô nhiễm môi trường, vì thế cần có giải pháp sử dụng hợp lý đối
với than chứa urani Nông Sơn.
- Urani
trong than Núi Hồng: Urani là nguyên tố
đi kèm với than có hàm lượng thấp, dao động trong phạm vi rộng, không hình
thành thân quặng urani độc lập, chỉ được coi là nguyên tố đi cùng với than dưới
dạng nguyên tố có ích, cần được thu hồi trong quá trình khai thác và sử dụng
than.
- Urani đi với phosphat Bình Đường: Urani phân bố trong trầm tích bở rời phủ trên đá
trong hệ tầng Cốc Xô và granit khối Pia Oăc. Trầm tích bở rời gồm 2 phần:
Phần dưới là sét kaolin lẫn sạn sỏi thạch anh,
vảy mica, ít mảnh granit và đá khác chứa các thấu kính, ổ giàu. Trong các thấu
kính giàu phosphat thường có urani ở dạng khoáng vật tecbenit, autunit, dạng hấp
phụ, dạng thay thế đồng hình.
Phần trên là sản phẩm phá huỷ cơ học của đá
granit, gồm những tảng granit kích thước vài chục cm3 đến vài m3.
Lấp đầy khoảng trống giữa các tảng granit là sét kaolin lẫn sạn sỏi thạch anh,
vảy mica nghèo phosphor và urani.
Đã phát hiện 6 thân quặng urani. Các thân quặng
chính đã được thăm dò sơ bộ năm 1985. Mạng lưới thăm dò: 40 × 20-40 m cho cấp
122 và 40-80 × 80 m cho cấp 333. Nhìn chung, thung lũng Bình Đường có tiềm năng
urani không lớn. Nguồn gốc thành tạo có lẽ là trầm tích và thấm đọng.
- Urani đi với thori, đất hiếm Mường Hum: Khu tụ khoáng Mường Hum, Nậm Pung gồm 9 thân quặng
chính. Hầu hết các thân quặng đều nằm trong tầng đá dăm, cuội, cát; chỉ có thân
quặng 8 nằm trong đá đresvenit.
Urani ở dạng đồng hình trong các khoáng vật đất
hiếm, nguyên tố hiếm như monazit, oxinit, orangit, bastnaesit, chechit,
lantanit, samarskit,...
Ngoài urani
và thori, trữ lượng đất hiếm được tính cho toàn tụ khoáng Mường Hum với hàm lượng
trung bình là 1,84% TR2O3. Đất
hiếm mỏ Mường Hum có tỷ lệ các nguyên tố nhóm nặng tương đối cao, dao động từ
25,16% ¸ 36,43% trong tổng
oxit đất hiếm (cao hơn đất hiếm Yên Phú) [2].
Về công nghệ xử lý quặng, cho đến nay chưa có
thí nghiệm nào được tiến hành đối với urani. Song đã tiến hành khảo sát khả
năng thu hồi đất hiếm trực tiếp từ tinh quặng tuyến nổi và từ quặng nguyên
khai. Kết quả cho thấy việc hoà tan đất hiếm là dễ dàng, có thể hoà tách được
93% trong quặng ở nhiệt độ trong phòng bằng axit H2SO4.
Tóm lại, mỏ urani đi đôi với thori, đất hiếm Mường
Hum thuộc loại trung bình-nhỏ xét về tài nguyên tổng hợp. Nhưng có khả năng
khai thác thuận lợi và thu hồi tổng hợp cả ba tổ phần hữu ích urani, thori, đất
hiếm; đặc biệt là có tỷ lệ đất hiếm nhóm nặng cao.
- Điểm Đầm
Mây, Thái Nguyên: quặng urani phân bố trong vỏ phong hoá của
đá sét vôi và phần trên vỏ
phong hoá thường giàu hơn phần dưới. Có 2 dải quặng (dải
+ Dải Nam: có 3 thấu kính nằm trong 3 đới của vỏ
phong hoá, trong đó thấu kính 1 có giá trị nhất.
+ Dải Bắc: chỉ có mặt ở đới dưới cùng của vỏ
phong hoá với hàm lượng rất thấp.
Urani hấp phụ trong limonit và các khoáng vật
sét.
2. Mức độ điều tra quặng urani ở Việt
Công tác điều tra nghiên cứu về khoáng sản xạ-hiếm
đã được quan tâm từ những ngày đầu của ngành Địa chất. Trước những năm 1975,
công việc chỉ tập trung vào đánh giá các tụ khoáng và mỏ đất hiếm là chính, chỉ
sau 1975 công tác nghiên cứu đánh giá về urani mới được tập trung đầu tư. Kết
quả các công tác nghiên cứu điều tra, đánh giá đã phát hiện một loạt các mỏ đất
hiếm có giá trị (Nậm Xe, Đông Pao, Yên Phú…) và các tụ khoáng urani như Bình Đường,
Nông Sơn.
Đặc biệt, sau năm 1980 công tác điều tra nghiên
cứu về urani được đẩy mạnh với việc phát hiện một số điểm khoáng hóa urani ở
Bình Đường, Tiên An, khu mỏ than Nông Sơn và đặc biệt là phát hiện loại hình
urani trong cát kết Trias thượng ở võng Nông Sơn. Tuy nhiên, mức độ điều tra
còn ít, so với các loại hình khoáng sản khác như than đá, chì-kẽm, sắt, vàng… mức
độ đầu tư còn ít về vốn, số các công trình nghiên cứu cũng như các công trình
sâu (khối lượng khoan máy từ năm 1983 đến nay khoảng 20.000 m). Với khoáng sản
urani mới chỉ thăm dò 1 khu với diện tích khoảng 0,5 km2 ở Bình Đường,
song ở đây số lượng công trình khoan cũng hạn chế, còn các diện tích khác chỉ mới
dừng ở mức đánh giá tỷ lệ 1:5.000 - 1:2.000 hoặc được đánh giá đi kèm trong
thăm dò khoáng sản khác.
II. ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ
Trên lãnh thổ Việt
III. TÀI NGUYÊN URANI CỦA VIỆT
Tính đến tháng 12/2007, tổng tài nguyên urani ở
Việt
Ở Việt
IV. MỨC
ĐỘ NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ
Trước những năm 1970, trên các tụ khoáng vùng Nậm
Xe đã tiến hành lấy mẫu công nghệ để nghiên cứu quy trình tách tuyển đất hiếm -
xạ. Kết quả xác định ngoài quy trình tách tuyển đất hiếm còn có thể xử lý để
thu hồi urani, song công nghệ phức tạp và cũng chỉ có ý nghĩa khi kết hợp khai
thác chế biến thu hồi với đất hiếm.
Sau năm 1975, cùng với sự ra đời của Liên đoàn
Địa chất 10 (nay là Liên đoàn Địa chất Xạ-Hiếm) và Viện Năng lượng Nguyên tử
VN, công tác nghiên cứu công nghệ đã thực sự gắn kết với công tác điều tra thăm
dò khoáng sản xạ-hiếm.
Việc nghiên cứu công nghệ đã được tiến hành ở
các tụ khoáng và điểm quặng sau:
- Tại điểm quặng urani Bình Đường đã nghiên cứu
công nghệ tách urani ra khỏi phosphat. Qua nghiên cứu, ta thấy là việc tách tuyển
urani khá khó khăn, hiệu quả kinh tế thấp, giá thành tách tuyển rất cao.
- Tại điểm quặng urani Tiên An, đã nghiên cứu
tách urani ra khỏi graphit. Việc thu hồi urani thuận lợi, song trữ lượng
graphit không lớn, thuộc loại mỏ nhỏ và hàm lượng urani thấp nên không hiệu quả
kinh tế.
- Tại mỏ than Nông Sơn đã tiến hành lấy mẫu kỹ
thuật để xác định khả năng thu hồi urani trong than. Kết quả cho thấy có thể
thu hồi urani từ tro và xỉ than, song lượng axit tiêu tốn lớn, không kinh tế và
chỉ có ý nghĩa khi thu hồi kết hợp sử dụng than.
- Tại các tụ khoáng urani trong cát kết võng
Nông Sơn bao gồm các tụ khoáng Khe Hoa - Khe Cao, Pà Lừa, An Điềm đều đã lấy mẫu
để tìm hiểu quy trình tuyển thu hồi urani.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy có thể thu hồi
urani từ quặng cát kết bằng các phương pháp hòa tách khuấy trộn với hiệu suất
thu hồi cao. Tuy nhiên, công tác nghiên cứu công nghệ mới chỉ dừng ở quy mô
phòng thí nghiệm nên chưa có cơ sở cho công tác đầu tư khai thác [6].
V. KẾT LUẬN
Từ các dẫn liệu trình bày bên trên, có thể đi đến
các kết luận sau:
1. Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng trung
bình trên thế giới về khoáng sản urani, song mức độ điều tra nghiên cứu còn sơ lược,
chỉ có khoảng 1 % được đánh giá ở mức độ cấp tài nguyên 333, còn lại là dự báo
có độ tin cậy hạn chế.
2. Nhiều kiểu tụ khoáng urani đã được phát hiện
trên các vùng khác nhau và các cấu trúc địa chất khác nhau của đất nước, trong
đó có kiểu tụ khoáng có khả năng có trữ lượng lớn, có ý nghĩa quan trọng như tụ
khoáng urani trong cát kết Nông Sơn.
3. Các tụ khoáng urani đã được phát hiện có hàm
lượng tương đối nghèo. Riêng các tụ khoáng urani trong cát kết Nông Sơn có hàm
lượng urani đạt ngưỡng trung bình thấp so với các tụ khoáng cùng loại trên thế
giới ở mức khoảng 0,05-0,06 % U3O8.
4. Qua các nghiên cứu trong phòng, urani trong
cát kết Nông Sơn dễ thu hồi bằng các phương pháp xử lý quặng phổ biến, đơn giản
cho hiệu suất thu hồi cao.
Ở Việt Nam, theo kế hoạch phát triển ngành điện
đến năm 2010, có tính đến 2020, đã được Chính phủ phê duyệt, nhà máy điện
nguyên tử có thể sẽ đi vào hoạt động khoảng năm 2015-2017 và lượng điện nguyên
tử sẽ chiếm khoảng 3-5 % tổng lượng điện.
Theo tính toán thống kê trong quy hoạch của các
nước, cứ một MWe điện thiết kế của lò phản ứng phải chuẩn bị trữ lượng urani
khoảng 5,5-6,5 tấn U3O8 (tùy thuộc vào kiểu và công suất
lò) để đảm bảo lò tồn tại khoảng 24 năm. Như vậy, nếu chúng ta dự kiến 2 tổ lò
với công suất tổng thể khoảng 2.000 MWe thì phải chuẩn bị một trữ lượng urani
khoảng 12.000 tấn U3O8 cho cả đời hoạt động của lò (trữ
lượng này là trữ lượng urani tại chỗ, trong lòng đất) [6].
Theo “Kế hoạch tổng thể thực hiện chiến lược ứng
dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020” đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 114/2007/QĐ-TTg ngày 23/7/2007) trong giai
đoạn trước mắt, để đáp ứng chiến lược về nhiên liệu hạt nhân, trong quy hoạch từ
nay đến năm 2020 đã đặt mục tiêu có được 8.000 tấn U3O8
trữ lượng cấp chắc chắn (122) đủ điều kiện để đưa vào khai thác đảm bảo cung cấp
nguyên liệu cho nhà máy điện nguyên tử hoạt động.
Ta có thể thấy trữ lượng urani của Việt
VĂN LIỆU
1.
IAEA, 2001, 2003, 2005. Uranium
resources, production and demand. IAEA,
2.
Nguyễn Ngọc Anh, Trần Thanh Tùng và nnk., 1986. Báo
cáo Đánh giá triển vọng quặng phóng xạ các vùng Việt Bắc và Quảng
3.
Nguyễn Quang Hưng (Chủ biên), 1997. Báo cáo Kết quả tìm kiếm urani và các khoáng sản
đi kèm vùng Tabhing, trũng Nông Sơn, Quảng Nam - Đà Nẵng. Lưu trữ ĐC, Hà Nội.
4.
Nguyễn Quang Hưng (Chủ biên), 1999. Báo cáo Đánh giá urani khu Pà Lừa,
huyện Giằng, tỷnh Quảng
5.
Nguyễn Văn Hoai (Chủ biên) 1985. Báo cáo Thành lập bản đồ sinh khoáng và chẩn đoán triển
vọng urani trên lãnh thổ CHXHCN Việt
6.
Trịnh Xuân Bền, Nguyễn Quang Hưng, 1998. Cơ sở chọn vùng và đề xuất kế hoạch thăm dò
urani phục vụ chương trình phát triển điện nguyên tử ở nước ta.
BC Hội thảo Nguyên liệu hạt nhân lần
1. Viện Năng lượng nguyên tử VN, Hà Nội.