CÁC CHU KỲ VÀ THÀNH TẠO TRẦM TÍCH KỶ ĐỆ
TỨ
Ở VIỆT
DOÃN
ĐÌNH LÂM
Viện Địa
chất, Viện Khoa học và Công nghệ Việt nam,
84, Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội
Tóm tắt: Bài báo giới thiệu các chu kỳ trong kỷ Đệ tứ đã được xác lập trên thế giới,
dựa trên cơ sở nghiên cứu, liên kết các thành tạo trầm tích, các chu kỳ thay
đổi khí hậu trên Trái đất, kết hợp với nghiên cứu cổ thổ nhưỡng và các giai
đoạn đồng vị oxy (O16/18).
-
-
-
Liên
hệ với các chu kỳ trầm tích Đệ tứ ở Việt Nam, tác giả đưa ra một số nhận xét về
các chu kỳ của trầm tích Đệ tứ cũng như những suy nghĩ về ranh giới Neogen - Đệ tứ ở Việt
Nam.
I. MỞ
ĐẦU
Cũng như các sự kiện diễn ra
trong thiên nhiên và xã hội, các sự kiện địa chất xảy ra theo một chu kỳ nhất
định. Các chu kỳ trong kỷ Đệ tứ nói riêng và trong địa chất nói chung đã được
nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến từ các khía cạnh khác nhau [1-7]. Trong bài này tác giả giới thiệu những chu kỳ trong
kỷ Đệ tứ đã được xác lập trên cơ sở nghiên cứu, liên kết các thành tạo địa chất
trên toàn cầu, các tầng thổ nhưỡng cổ, các giai đoạn biến đổi khí hậu trong kỷ
Đệ tứ cũng như các số liệu về biến đổi đồng vị oxy (O16/18). Tìm
hiểu, nghiên cứu những chu kỳ này là góp phần vào việc luận giải những sự kiện
địa chất đã xảy ra trong quá khứ, đồng thời có thể góp phần vào việc suy đoán
diễn thế khí hậu trong tương lai.
Các nghiên cứu về điều kiện
khí hậu trong quá khứ cho thấy trong Kỷ Đệ tứ khí hậu thay đổi theo các chu kỳ nhất
định. Có những giai đoạn khí hậu nóng ẩm đan xen với những giai đoạn khí hậu
lạnh khô. Quá trình thay đổi khí hậu như vậy là nguyên nhân gây ra các chu kỳ
trong kỷ Đệ tứ. Khi khí hậu toàn cầu lạnh đi dẫn đến sự phát triển các băng hà,
mực nước biển rút xuống thấp và khi khí hậu toàn cầu nóng lên thì băng sẽ tan,
nước biển lại dâng lên. Quá trình thay đổi khí hậu toàn cầu chủ yếu do những
thay đổi của bức xạ Mặt trời gây ra. Trong lịch sử 2,4 triệu năm gần đây, Trái
đất đã trải qua sáu lần băng hà và sáu lần gian băng [1, 4, 5]. Dưới con mắt nhà địa chất, việc lý giải khí hậu Trái
đất hiện nay nóng lên chỉ thuần túy do hiệu ứng nhà kính thì chưa đủ*. Quá trình
nóng lên và lạnh đi của khí hậu Trái đất diễn ra theo chu kỳ vốn có của tự
nhiên. Do vậy, việc nghiên cứu và xác lập các chu kỳ này là những đóng góp nhằm
tìm hiểu sự thay đổi của khí hậu trong quá khứ và dự đoán quá trình thay đổi
của khí hậu trong tương lai.
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
* Các nghiên cứu quốc tế đã tìm thấy
mối liên hệ đồng biến giữa quá trình gia tăng hiệu ứng nhà kính với lượng khí
thải CO2 và hiện tượng ấm dần lên của khí hậu toàn cầu (BBT). |
II. CƠ
SỞ XÁC LẬP VÀ CÁC
Các chu kỳ trong kỷ Đệ tứ được
thiết lập trên các cơ sở sau:
- Các thành tạo trầm tích
- Các tầng thổ nhưỡng cổ
- Sự thay đổi khí hậu
- Các giai đoạn đồng vị oxy
Trong kỷ Đệ tứ khí hậu Trái
đất biến đổi theo chu kỳ nóng-ẩm và lạnh-khô. Điều này liên quan đến hoạt động bức
xạ của Mặt trời. Năng lượng Mặt trời là nguồn nhiệt năng duy nhất cung cấp cho
Trái đất. Khi nguồn năng lượng này thay đổi thì sẽ kéo theo sự thay đổi về khí
hậu trên Trái đất. Biến đổi về khí hậu trên Trái đất là nguyên nhân sâu xa gây
ra những đợt băng hà, gian băng, những đợt hạn hán và đại hồng thuỷ trên toàn
cầu. Chính những thay đổi này đã để lại dấu ấn còn lưu giữ lại mà ngày nay con
người có thể tiếp cận, tìm hiểu được. Một trong những dấu ấn đó là các tập trầm
tích và các tầng thổ nhưỡng cổ. Những tập trầm tích và tầng thổ nhưỡng cổ là
các dấu ấn rõ ràng và có sức thuyết phục nhất về điều kiện cổ khí hậu và các cảnh
quan trong quá khứ. Ngoài ra, nghiên cứu đồng vị oxy (O16/18) trong
các lỗ khoan sâu ngoài biển khơi cho phép xác lập các chu kỳ trong Kỷ Đệ tứ nói
riêng và trong các thời kỳ địa chất nói chung. Khi nước ở đại dương bốc hơi thì
trong thành phần hơi nước sẽ có nhiều đồng vị oxy nhẹ (O16), trong
khi đó trong nước sẽ còn nhiều đồng vị oxy nặng (O18). Tại vùng cực,
nước mưa rơi xuống sẽ thành băng và do vậy lượng đồng vị oxy nhẹ (O16)
trong băng sẽ nhiều hơn so với nước trong đại dương. Khi băng tan, lượng đồng vị
oxy nhẹ này sẽ làm cho lượng đồng vị oxy nhẹ trong nước biển tăng lên. Đây là
hiện tượng phân tách đồng vị (isotopic
fractionation). Chính vì lý do này mà dao động khí hậu sẽ để lại dấu ấn là trong
thành phần của vỏ sinh vật biển như Trùng lỗ, trong các thời gian khác nhau các
giai đoạn đồng vị oxy sẽ khác nhau. Nghiên cứu các giai đoạn đồng vị oxy (oxygen isotope stage) của vỏ trùng lỗ
trong các thời gian khác nhau sẽ cho bức tranh sinh động về dao động khí hậu
trong quá khứ. Như vậy, khi khí hậu lạnh đi, một phần nước biển sẽ bị đóng
băng. Do sự chọn lọc của các đồng vị nên trong quá trình đóng băng, nước biển
sẽ có nhiều hơn đồng vị oxy nặng (O18) hay nói khác đi là nước biển
giàu đồng vị oxy nặng, còn trong băng sẽ có nhiều đồng vị oxy nhẹ (O16)
hay nói một cách khác là băng nghèo đồng vị oxy nặng. Quá trình này sẽ ngược lại
khi có hiện tượng băng tan. Nghiên cứu tỷ số O16/18 của mẫu so với
mẫu ở mực nước đại dương chuẩn (
Trong quá trình quay xung quanh
mặt trời, tâm sai của quỹ đạo quay của Trái đất xung quanh mặt trời (eccentricity),
độ nghiêng của trục Trái đất so với mặt phẳng của quỹ đạo (obliquity) và
độ tuế sai (precession) của Trái đất cũng thay đổi theo thời gian. Các chu
kỳ thay đổi trên đã được nhà toán học Nam Tư Milankovich tìm ra năm 1981 (Hình
1). Đó là chu kỳ 100.000 năm của tâm sai quỹ đạo quay của Trái đất xung quanh
mặt trời, chu kỳ 41.000 năm của độ nghiêng trục Trái đất so với mặt phẳng của quỹ
đạo và chu kỳ 22.000 năm của độ tuế sai của Trái đất [1]. Các chu kỳ trên đã ảnh hưởng đến tổng năng lượng bức
xạ mặt trời tới Trái đất, gây nên những thay đổi về khí hậu mang tính chu kỳ mà
dấu ấn để lại là các tập trầm tích, các tầng cổ thổ nhưỡng và các giai đoạn
đồng vị oxy.
III. CÁC
CHU KỲ TRONG KỶ ĐỆ TỨ
Trong kỷ Đệ tứ tồn tại ba bậc
chu kỳ có tính toàn cầu: chu kỳ bậc một, bậc hai và bậc ba.
1.
a. Chu kỳ 400
Tầng
trầm tích |
Thời
gian cực kỳ khô hạn (nghìn năm) |
Giai
đoạn đồng vị Oxy (OIS) |
Tập thổ
nhưỡng cổ (GS) |
|
Tập cuội
sỏi A |
130-200 |
1-6 |
0-6 |
C3 |
Tập cuội
sỏi B |
620-670 |
7-16 |
7-14 |
T3 |
Tập cuội
sỏi C |
910-980 |
17-26 |
15-23 |
C2 |
Tập cuội sỏi D |
1.250-1.320 |
27-40 |
24-35 |
T2 |
Tập cuội
sỏi E |
1.840-2.000 |
41-70 |
36-49 |
C1 |
Tập cuội
sỏi F |
2.350-2.400 |
71-90 |
50-60 |
T1 |
Đây là chu kỳ liên quan tới
chu kỳ 100 Ky năm của tâm sai quỹ đạo Trái đất quay xung quanh Mặt trời (eccentricity)
do Melankovich tìm ra năm 1981. Đây cũng là kiểu chu kỳ mà Imbries J., Hays J.
và
2.
Đây là
hai trung chu kỳ liên quan đến độ tuế sai và độ nghiêng của trục Trái đất [1]. Các chu kỳ này được thể hiện bởi các tập thổ
nhưỡng cổ của các giai đoạn gian kỳ (interstadial). Gian kỳ là giai đoạn ấm lên hay lạnh đi một cách tương đối trong các
thời kỳ gian băng hay băng hà. Điều đó có nghĩa là trong một giai đoạn băng hà
nào đó sẽ có những thời kỳ mà khí hậu Trái đất nóng lên, tuy nhiên không thể nóng
bằng khí hậu trong giai đoạn gian băng. Các gian kỳ này để lại dấu vết là các
tập thổ nhưỡng cổ. Những tập thổ nhưỡng cổ này kém phát triển hơn và là tập thổ
nhưỡng cổ gian kỳ (interstadial paleosoils). Qua nghiên cứu các mặt cắt
địa chất Đệ tứ tại Trung Quốc, Bỉ, Burunđi, Hy Lạp, Zaire...các nhà địa chất đã
phát hiện ra 60 tập thổ nhưỡng cổ trong vòng 2,4 triệu năm của kỷ Đệ tứ [4]. Các tập thổ nhưỡng cổ này thể hiện tính chu kỳ 22
Ky và 41 Ky. Như trong giai đoạn Pleistocen muộn, ngoài tập thổ nhưỡng cổ của
thời kỳ gian băng phân bố ở phần đáy mặt cắt còn có 10 tập thổ nhưỡng cổ đan
xen nhau với chu kỳ 22 Ky và 41 Ky. Huyau Lu và nnk., [3] qua nghiên cứu các
tập thổ nhưỡng cổ phát triển trong trầm tích hoàng thổ tại Luochuan và Xifeng
(Trung Quốc) cũng đã phát hiện và khẳng định sự tồn tại của chu kỳ 41 Ky và 22
Ky.
3.
IV. MỘT
SỐ SUY NGHĨ VỀ CÁC CHU KỲ TRẦM TÍCH ĐỆ TỨ Ở VIỆT
Ở nước ta, do chưa có các nghiên
cứu về đồng vị Oxy cũng như về các tầng thổ nhưỡng cổ và đặc biệt là thiếu số
liệu tuổi tuyệt đối trong các thành tạo có tuổi Pleistocen sớm và Pleistocen
giữa nên vấn đề liên hệ, so sánh chu kỳ trầm tích Đệ tứ ở Việt Nam với các chu
kỳ Đệ tứ trên thế giới còn là vấn đề bỏ ngỏ. Tuy nhiên, dựa trên các mặt cắt
trầm tích Đệ tứ, so sánh với các mặt cắt khác nhau trên thế giới có thể đưa ra
một số nhận định về tính chu kỳ trong kỷ Đệ tứ ở Việt Nam như sau.
Đối với các thành tạo trầm tích
Đệ tứ ở Việt Nam, Trần Nghi, Ngô Quang Toàn [6] đã đưa ra năm chu kỳ cơ bản [6-8]. Cơ sở để thiết lập các chu kỳ này là sự thay đổi
thành phần độ hạt từ thô đến mịn ứng với sự dao động mực nước biển trong Đệ tứ.
Mở đầu mỗi chu kỳ là các thành tạo hạt thô, tương đương với giai đoạn biển lùi
và kết thúc mỗi chu kỳ là các thành tạo hạt mịn, tương ứng với giai đoạn biển
tiến. Các tác giả đã thiết lập các chu kỳ sau:
Một điểm cần lưu ý ở đây là
ranh giới giữa Đệ tứ và Neogen ở Việt
So sánh, liên kết các chu kỳ
trên thế giới với các trầm tích Đệ tứ ở đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ (Hình 3) ta
sẽ thấy:
- Nếu lấy đáy của trầm tích
Pleistocen hạ (ở miền Bắc là hệ tầng Lệ Chi, miền Nam là hệ tầng Trảng Bom) là ranh
giới giữa Đệ tứ và Neogen và lấy mốc ranh giới của Đệ tứ và Neogen là 1,6 triệu
năm thì sẽ thấy còn thiếu một tầng hạt thô (tầng D) trong các thành tạo Đệ Tứ ở
Việt Nam. Như vậy, vấn đề đặt ra là ở Việt Nam liệu các trầm tích có tuổi
Pliocen (hệ tầng Vĩnh Bảo ở miền Bắc, hệ tầng Bà Miêu ở miền Nam), nằm dưới
trầm tích Q11 đã phải là trầm tích Neogen chưa hay vẫn
còn là trầm tích Đệ tứ? Bởi lẽ, xuất phát từ quan điểm chu kỳ thì trong mặt cắt
các thành tạo Đệ tứ ở Việt Nam cần phải tìm được bốn tập trầm tích hạt thô tương
ứng với các tập A, B, C và D trong vòng 1,6 triệu năm. Đây là một vấn đề đặt ra
cho các nhà địa chất Đệ tứ trong tương lai. Giải quyết vấn đề này cần có các số
liệu phân tích tuổi tuyệt đối của các thành tạo trầm tích Pleistocen hạ và trầm
tích Pliocen.
V. KẾT
LUẬN
Khí hậu Trái đất trong kỷ Đệ tứ
thay đổi theo chu kỳ nhất định. Có ba bậc chu kỳ.
Trong số 5 chu kỳ trầm tích
Đệ tứ ở Việt Nam [6] thì ba chu kỳ dưới cùng (Q11
, Q12-3a
và Q13b) có thể xếp tương đương với các chu kỳ C2, T3 và C3,
còn hai chu kỳ trên cùng trong Holocen là những giai đoạn trong chu kỳ bậc
ba - 10 Ky.
Hình
2. Các chu kỳ trong kỷ Đệ tứ
Hình
3. Sơ đồ liên kết, so sánh các chu kỳ và trầm
tích Đệ tứ ở Việt
Qua liên hệ, so sánh với các
thành tạo trầm tích Đệ tứ trên thế giới thấy rằng ở Việt Nam đáy của trầm tích
được xếp vào tuổi Pleistocen sớm - tức là ranh giới Neogen - Đệ tứ hiện nay ở
Việt Nam có thể chỉ tương ứng với một triệu năm. Như vậy, vấn đề đặt ra là ở
Việt
Lời cảm ơn
Bài báo được hoàn thành với
sự tài trợ của Chương trình Nghiên cứu cơ bản.
Tác giả chân thành cảm ơn PGS.TSKH
Nguyễn Địch Dỹ, TS Ngô Quang Toàn đã đọc và cho những ý kiến đóng góp quý báu.
VĂN LIỆU
1. Imbries J., Hays J.D.,
2. Kukla G., 1989. Loess stratigraphy in
3. Lu Huayu et al, 2004. Periodicities of paleoclimatic variation recorded
by loess-paleosols sequences in
4. Paepe R. and Van Overloop E., 1990. River and soils cyclicities interfering with sea
level changes. In Paepe et al; Green house effect, sea level and mitigation
of drought. Kluwer Academic Publ. Boston. 253-280.
5. Shackleton N.J., 2000. The 100.000 yr ice-age cycle identified and found
to lag temperature, carbon dioxide and orbital eccentricity. Science, 289 : 1897-1902.
6. Trần Nghi, Ngô Quang Toàn, 1991. Đặc điểm
các chu kỳ trầm tích và lịch sử tiến hoá địa chất Đệ tứ của đồng bằng sông Hồng.
Địa Chất, 206-207 : 65-77. Hà Nội.
7. Trần Nghi, Nguyễn Văn Vượng, Đỗ Thị Vân Thanh,
Nguyễn Đình Minh, Ngô Quang Toàn, 1991.
Sedimentary cycles and Quaternary geological evolution of the Red River delta
of
8. Trần Nghi (Chủ biên), 2000. Đặc
điểm tướng đá - cổ địa lý Pliocen - Đệ tứ thềm lục địa Việt