TỔ HỢP PHƯƠNG PHÁP ĐỊA VẬT LÝ NGHIÊN CỨU
VÀ DỰ BÁO TAI BIẾN SỤT ĐẤT Ở
NGUYỄN DUY TIÊU1, NGUYỄN TRẦN TÂN1, NGUYỄN
TRƯỜNG LƯU1,
NGUYỄN TIẾN THÀNH2, NGUYỄN VĂN CÚC2, HỒ TÀI2
1Liên đoàn Vật lý Địa chất, Thanh Xuân, Hà
Nội
2Liên đoàn Địa chất
Bắc Trung Bộ
Tóm tắt: Hiện tượng sụt đất ở
I. GIỚI THIỆU
Vào 21 giờ ngày 18/2/2006 và liên tiếp các ngày sau
đó, tại thôn Tân Hiệp, xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị đã xẩy ra
hiện tượng sụt đất trên vùng có chiều rộng khoảng 200 m, dài gần 300 m, gây sập
đổ, nứt vỡ hơn 60 nhà ở và các công trình xây dựng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
cuộc sống của nhân dân trong thôn và buộc những hộ dân trong diện tích sụt đất
phải di dời đến nơi ở mới. Trước đó, trong khoảng thời gian từ 1994 đến nay,
một số nơi khác trong huyện Cam Lộ cũng đã xảy ra sụt đất quy mô nhỏ như ở thôn
Hậu Viên, trạm Y tế thị trấn Cam Lộ, thôn Tân Mỹ….
Để làm rõ nguyên nhân và xác định các vùng tiềm ẩn
nguy cơ sụt đất, công tác điều tra địa chất, địa chất thuỷ văn, địa chất công
trình và địa vật lý đã được tiến hành trên diện tích 25 km2 dọc theo
hai bờ sông Hiếu, từ xã Cam Tuyền đến thị xã Đông Hà.
Trong khuôn khổ bài báo này, chúng
tôi giới thiệu kết quả khảo sát địa vật lý trên các vùng lân cận thôn Tân Hiệp,
nơi có hiện tượng sụt đất nguy hiểm nhất.
Tổ hợp phương pháp địa vật lý đã tiến hành gồm:
- Phương pháp điện mặt
cắt với AB = 90 và 150m.
- Phương pháp đo sâu điện
đối xứng với AB/2max = 325 m.
- Phương pháp đo rađa
xuyên đất (georadar).
Kết quả khảo sát địa vật lý đã xác định quy luật
phân bố và xác định các vùng có nguy cơ sụt đất, có thể gây nguy hiểm đến tính
mạng và tài sản của dân cư ở Tân Hiệp.
II. ĐẶC ĐIỂM CÁC YẾU TỐ ĐỊA
CHẤT LIÊN QUAN ĐẾN SỤT LỞ ĐẤT
1. Các thành tạo Đệ tứ
Thành tạo Đệ tứ có diện phân bố
rộng, chiếm phần lớn diện tích vùng nghiên cứu và tạo nên đồng bằng hiện tại
với nhiều dạng địa hình khác nhau. Đặc trưng của chúng là đa nguồn gốc và có sự chuyển tướng ngang rõ rệt từ
rìa đồng bằng ra biển, gồm các trầm tích thềm bậc II (Pleistocen thượng), thềm
bậc I, bãi bồi cao, bãi bồi thấp và trầm tích lòng sông (Holocen).
2. Các thành đạo đá gốc
Thành phần thạch học của đá gốc trong vùng sụt đất
gồm phần dưới là đá vôi sét xen đá vôi màu xám đen, chuyển lên là đá vôi, đá
vôi đolomit màu xám sáng của hệ tầng Cù Bai. Các đá của hệ tầng tạo thành một
nếp lõm không hoàn chỉnh có trục kéo dài theo phương á
vĩ tuyến.
Do nằm trong đới hoạt động của nước dưới đất, nước
mặt và chịu ảnh hưởng của hoạt động kiến tạo, nên các đá hệ tầng Cù Bai bị cà
nát, dập vỡ khá mạnh và phát triển nhiều hang hốc karst (Ảnh 1, 2). Ngay tại bờ
suối La La gần thôn Tân Hiệp và một số giếng trong thôn đã quan sát thấy các
hang karst có kích thước rộng 1 - 1,5 m, dài 4 m, sâu hơn 2 m. Tại lỗ khoan 1
tìm kiếm đá vôi ngầm của Công ty Xi măng Quảng Trị có độ sâu 40 m cũng gặp các
hang karst kích thước 1-2 m. Tại trung tâm Y tế Cam Lộ, cả 3 lỗ khoan khảo sát
nền móng đều gặp hang karst ở độ sâu 6-8 m, kích thước hang 3-4 m.
Ảnh 1. Hố sụt do hang karst trong đá
carbonat ở bờ suối La La;
2. Đá carbonat bị cà nát, dăm kết hoá
tại bờ suối La La.
3. Hiện trạng sụt đất
Sụt đất tại
Tân Hiệp xảy ra vào lúc 21 giờ ngày 18/2/2006 và còn kéo dài rải rác vài ngày
sau đó, có hố sụt vào ngày 10/3. Đầu tiên xuất hiện các hố sụt cạnh bờ suối,
tiếp theo là các hố khác theo chiều hướng phát triển từ ngoài bờ suối vào trong
thôn. Ngay trước một ngày xảy ra sụt đất, vào đêm 17/02/2006, có trận mưa to
bất thường hiếm gặp kéo dài liên tục hơn 3 giờ, nước suối dâng cao và rút cạn
ngay vào sáng hôm sau, và vào lúc 21 giờ ngày 18/02 đã xẩy ra sụt đất hàng
loạt.
Đến ngày
30/3/2006, tại thôn Tân Hiệp đã xác định được 52 hố sụt đất lớn nhỏ (Ảnh 3, 4),
phân bố thành một dải có chiều rộng 150-200 m, chiều dài 300 m, phát triển theo
phương ĐB-TN, kéo dài từ bờ suối La La đến giữa thôn.
Mật độ, kích
thước và độ sâu các hố lớn nhất ở gần bờ suối La La và giảm dần về phía đông
bắc. Các hố chủ yếu có hình tròn, đẳng thước, đường kính lớn nhất 25 m, nhỏ
nhất 0,2 m, trung bình 4-5 m; thành hố thẳng đứng hoặc hàm ếch, có xu thế mở
rộng xuống sâu; độ sâu hố quan sát được 4-5 m, những hố sâu đáy bị ngập nước.
Các hố sụt cạnh bờ suối có dạng phễu karst điển hình, phía dưới mở rộng và liên
kết với nhau tạo thành tập hợp phễu karst và khi có nước sẽ tạo thành dòng chảy
ngầm kéo theo đất đá gây sụt lún. Sụt đất tại Tân Hiệp gây tác hại rất nghiêm
trọng đối với các công trình xây dựng và cuộc sống của nhân dân. Toàn thôn có
178 hộ thì có tới 122 hộ bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau, trong đó 7 nhà bị
sập nền, sập tường, trụ gây hư hỏng hoàn toàn, hàng chục nhà khác bị sập một
phần hoặc lún, nứt gây mất an toàn. Các nhà nằm trong khu trung tâm sụt đất bị
thiệt hại nặng nhất (Ảnh 5-8).
Ảnh 3, 4. Các hố sụt đất ở Tân Hiệp
Ảnh 5-8. Tác hại của sụt đất đối với khu dân cư ở Tân
Hiệp
III. DỰ BÁO CÁC VÙNG CÓ
NGUY CƠ SỤT ĐẤT THEO TÀI LIỆU ĐỊA VẬT LÝ
Việc xử lý,
phân tích tài liệu địa vật lý điện được tiến hành theo các phương pháp truyền
thống (xây dựng đồ thị, bản đồ đẳng trị rk, phân tích đường cong
đo sâu điện, thành lập các mặt cắt địa điện…), ngoài ra còn sử dụng các phép
biến đổi trường (xây dựng mặt xu thế - trend, tính giá trị xu thế dư…) để xác
định các vùng có nguy cơ sụt đất nguy hiểm.
Tài liệu rađa
xuyên đất được xử lý theo chương trình Groundvision gồm các bộ lọc có tần số
khác nhau.
1. Nguy cơ sụt đất ở thôn Tân
Hiệp.
Vùng có nguy
cơ sụt đất nguy hiểm là phía TN thôn Tân Hiệp, gần khúc quành đổi hướng của
suối La La, phát triển dần theo hướng Đ-ĐB.
Trên sơ đồ đẳng trị điện trở suất các thiết bị AB =
90 m và AB = 150 m, hiệu xu thế dư bậc 1 cũng như tài liệu rađa xuyên đất đã
xác định sự tồn tại của đới dập vỡ, phá huỷ mạnh phát triển theo hướng ĐB-TN có
chiều rộng thay đổi trong khoảng từ 100 đến 200 m.
Tài liệu đo sâu điện, mặt cắt điện và rađa xuyên đất
cho phép xác định đới dập vỡ, phá huỷ, các khối có
điện trở dạng đẳng thước liên quan đến các hang động karst.
Kết quả phân tích định lượng tài liệu đo sâu điện,
rađa xuyên đất đã xác định chiều dày lớp phủ bở rời từ 4 đến 6 m. Tiếp dưới là
tầng sản phẩm phong hoá đá gốc, cuội, cát, sét…có chiều dày phụ thuộc bề mặt
nền đá gốc ít nhiều bị nứt nẻ, phong hoá yếu. Bề mặt đá gốc phong hoá yếu có độ
sâu thay đổi từ 4 đến 6-7 m. Độ sâu đến mặt đá gốc rắn chắc khoảng 40 đến 60 m.
Đây là tuyến địa vật lý đi qua vùng sụt đất mạnh (tương ứng với đới
dập vỡ trên mặt cắt rađa xuyên đất).
Trên sơ đồ đẳng trị hiệu xu thế dư điện trở suất các
thiết bị AB = 90 và AB = 150 m đã xác định được đới dị thường âm có liên quan
chặt chẽ với vùng sụt đất.
Hình 1. Dự báo nguy cơ sụt đất ở thôn
Tân Hiệp theo tài liệu địa vật lý
Các dị thường âm có hình dạng đẳng
thước khép kín có thể là vị trí các karst phân bố dưới lớp phủ. Tương ứng với các dị thường âm có
cực trị lớn là vùng đặc biệt nguy hiểm.
Nguyên nhân sụt đất là do đá gốc vùng thôn Tân Hiệp
có thành phần là carbonat bị đứt gãy phá huỷ gây nứt nẻ, dập vỡ mạnh và nằm
trong đới hoạt động nước dưới đất nên bị karst hoá mạnh tạo thành các phễu và
hang hốc. Trầm tích bở rời nằm trên đá gốc có bề dày mỏng (4 - 8 m) với thành
phần là cát, cát pha sét gắn kết yếu, rời rạc, dễ bị rửa trôi bởi dòng chảy và
sự dao động của mực nước dưới đất.
Hình
2. Mặt cắt địa vật lý tuyến 5 thôn Tân Hiệp
2. Vùng thôn Đông Định - Hậu
Viên
Vùng thôn Đông Định - Hậu Viên nằm
kẹp giữa đoạn chuyển hướng đột ngột của sông Hiếu.
Trên sơ đồ đẳng trị điện trở suất thiết bị AB = 90
m, AB = 150 m và đặc biệt hiệu xu thế dư bậc 1 điện trở suất biểu kiến của hai
thiết bị trên cho thấy tồn tại dải điện trở suất thấp nằm kẹp giữa hai đới điện
trở cao (Hình 3).
Hình 3. Hiện trạng và
nguy cơ sụt đất ở thôn Hậu Viên
Trên Hình 4 là mặt cắt địa vật lý
tuyến T3. Tài liệu mặt
cắt điện, đo sâu điện và kết quả phân tích định lượng đường cong đo sâu điện,
rađa xuyên đất cho phép xác định chiều dày lớp phủ bở rời khoảng 2-3 m, có điện
trở suất phụ thuộc thời tiết. Tiếp dưới là tầng cuội, cát,
sét, sản phẩm phong hoá đá gốc…có điện trở suất khoảng 50-100 Ω/m, chiều dày
phụ thuộc địa hình bề mặt nền đá gốc (đá vôi) bị phong hoá, nứt nẻ yếu.
Bề mặt địa hình đá vôi biến đổi phức tạp, có độ sâu
thay đổi từ 4 đến 7-8 m, tương ứng điện trở suất từ 200 đến 500 Ω/m. Trong tầng đá vôi bị
phong hoá, nứt nẻ yếu có các hang karst. Chiều dày của tầng này thay đổi từ vài
mét đến 40-50 m. Dưới cùng là đá vôi rắn chắc có điện trở suất cao.
Trong vùng này đã xác định được hệ thống đứt gãy phá
huỷ, nứt nẻ theo hướng TB-ĐN và gần á vĩ tuyến cắt
nhau rất phức tạp.
Trên sơ đồ đẳng trị hiệu xu thế dư bậc 1, điện trở
suất của hai thiết bị đo có thể xác định các dải điện trở thấp tương ứng vùng
có nguy cơ sụt đất, đặc biệt nguy hiểm ở diện tích gần sát sông Hiếu (thôn Hậu
Viên) và ở TB thôn Đông Định (gần cầu Đuôi).
Sụt đất và xói lở bờ sông Hiếu liên
quan mật thiết với nhau.
Dưới lớp phủ có thành phần cát, sét, sạn, cuội bở rời dày 4-10 m là đá vôi nứt
nẻ, bị karst hoá và nằm trong đới hoạt động nước dưới đất, nên quá trình sụt
đất xảy ra ở nhiều nơi, nhưng quy mô nhỏ. Sụt đất trên diện
rộng tạo điều kiện đẩy nhanh xói lở bờ sông và ngược lại, xói lở bờ làm sông mở
rộng đã làm tăng sự sụt đất.
Căn cứ vào đặc điểm, tính chất các hố sụt, ta thấy
sụt đất ở Hậu Viên - Trung Viên khá nguy hiểm.
Hình 4. Mặt cắt địa vật
lý tuyến T3 vùng Đông Định - Hậu Viên
3. Vùng các thôn Quất Xá, Tân Mỹ
Các thôn Quất Xá và Tân Mỹ nằm đối
diện thôn Tân Hiệp qua sông Hiếu.
Hình 5. Sơ đồ dự báo các vùng có nguy cơ sụt
đất ở các thôn Quất Xá và Tân Mỹ
Hình 6.
Mặt cắt địa vật lý tuyến 55 ở thôn Quất Xá
Căn cứ vào tài liệu mặt cắt điện, đo sâu điện và
rađa xuyên đất, đã xác định bề dày lớp phủ bở rời trong vùng này thay đổi từ 3
đến 6 m. Dưới chúng là tầng sản phẩm phong hoá đá gốc xen lẫn cuội, cát, sét…có
điện trở suất thay đổi trong khoảng một vài trăm Ω/m, chiều dày phụ thuộc bề mặt địa hình đá gốc (đá
vôi) bị phong hoá yếu. Độ sâu đến bề mặt đá gốc (bị phong hoá, nứt nẻ yếu)
khoảng 5-7 m, chiều dày từ 30 đến 60 m. Dưới cùng là đá gốc (đá vôi) rắn chắc.
Trên vùng này đã xác định được hệ thống phá huỷ, dập
vỡ xuyên cắt nhau theo hướng TB-ĐN và ĐB-TN. Các vùng
có nguy cơ sụt đất ở các thôn Quất Xá và Tân Mỹ đều liên quan đến các đới phá
huỷ, dập vỡ này.
4. Vùng các thôn An Hưng, Thượng Viên
- Trên cùng là lớp phủ dày 4,5 - 8,5 m, điện trở
suất thay đổi trong phạm vi rộng, từ 100 đến vài trăm Ω/m, có chỗ tới 1000 Ω/m.
- Xuống dưới là lớp điện trở thấp: 60-150 Ω/m, có chỗ tới 200 Ω/m, liên quan với lớp đá
vôi phong hóa mạnh, dập vỡ nứt nẻ nhiều và có thể cả hang karst, chiều dày từ
15 đến 30 m, đáy dưới có chỗ ở độ sâu tới 35 m.
Hình 7. Sơ đồ dự báo các
vùng có nguy cơ sụt đất ở các thôn An Hưng và Thượng
Viên
- Tiếp theo là lớp có điện trở trung bình 150-250 Ω/m, dày 20-30 m, đáy dưới
ở độ sâu 40-60 m, có chỗ tới 80 m như ở tuyến 46, liên quan với đá vôi nứt nẻ
nhiều, có có cả hang karst
- Lớp dưới cùng là đá vôi rắn chắc, điện trở cao.
Quá
trình hình thành hang karst dọc theo các đứt gãy theo
các hướng khác nhau là nguyên nhân gây ra sụt lún đất ở trong vùng.
KẾT LUẬN
Trên
đây là một số kết quả khảo sát địa vật lý đánh giá hiện trạng và xác định các
vùng tiềm ẩn nguy cơ sụt đất, gây nguy hiểm cho cuộc sống của dân cư ở Cam Lộ,
Quảng Trị.
Việc
sử dụng tổ hợp phương pháp địa vật lý hợp lý gồm đo mặt cắt điện, đo sâu điện
trở và rađa xuyên đất cho phép xác định chính xác vị trí, độ sâu các đối tượng
gây tai biến địa chất ở Cam Lộ, Quảng Trị. Công nghệ rađa xuyên đất tuy mới
được áp dụng nhưng đã trở thành một công cụ hữu hiệu để giải quyết nhiệm vụ đặt
ra.
Ngoài
việc nghiên cứu lựa chọn tổ hợp phương pháp điều tra hợp lý thì việc nâng cao
khả năng xử lý, tổng hợp đóng vai trò rất quan trọng khi gíải đoán địa chất tài
liệu địa vật lý.
Tổ hợp
phương pháp địa vật lý trên có thể ứng dụng để nghiên cứu tai
biến địa chất cho các vùng có đặc điểm địa chất tương tự.
VĂN
LIỆU
Nguyễn Tiến
Thành, Hồ Tài, Nguyễn Văn Cúc, Nguyễn Duy Tiêu, Nguyễn Trường Lưu và nnk.,
2006. Báo cáo Khảo sát, đánh
giá chi tiết hiện trạng, xác định rõ nguyên nhân sụt lở đất và xác định các
diện tích có nguy cơ sụt đất; đề xuất biện pháp phòng tránh nhằm ngăn chặn sự
cố gây thiệt hại có thể xảy ra tại các vùng dọc quốc lộ 9 và dọc sông Hiếu. Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.