XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG ĐIỆN TỬ TỔNG CỘNG
TẦNG ĐIỆN LY Ở VIỆT
CÁC TRẠM THU TÍN HIỆU VỆ TINH GPS
LÊ HUY MINH1,
A. BOURDILLON2, P. LASUDRIE DUCHESNE3, R. FLEURY3,
NGUYỄN CHIẾN THẮNG1, TRẦN THỊ LAN1, NGÔ VĂN QUÂN1,
LÊ TRƯỜNG THANH1,
HOÀNG THÁI LAN4, TRẦN NGỌC NAM5
1Viện Vật
lý địa cầu, 2Trường Đại học Tổng hợp Rennes,
3Trường Viễn thông quốc gia Brest,
4Phân viện Vật lý thành phố Hồ Chí Minh,
5Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
Tóm tắt: Bài báo giới thiệu phương pháp xác định hàm lượng điện tử tổng cộng tầng điện
ly (TEC) từ số liệu của các trạm thu tín hiệu vệ tinh GPS đặt tại Hà Nội, Huế
và Hóc Môn (Tp Hồ Chí Minh). Phương pháp sử dụng các giá trị giả khoảng cách
thu được ở 2 tần số f1 = 1575,42 MHz và f2 = 1227,60 MHz
của các máy thu GSV4004, các hiệu chỉnh do các thiết bị đặt trên các vệ tinh được
công bố trong các tệp số liệu mô hình TEC toàn cầu, và các giá trị hiệu chỉnh
do máy thu tính toán được bằng cách so sánh các giá trị TEC tính được trong
khoảng thời gian giữa đêm (23-01 h; giờ địa phương - LT - Local time) và các
giá trị TEC thu được từ mô hình toàn cầu ở vị trí các máy thu và cùng thời điểm.
Kết quả phân tích số liệu đồng thời ở 3 trạm ngày 15/01/2006 cho thấy rằng biến
thiên ngày đêm của TEC đạt cực đại vào khoảng 13 h LT và cực tiểu vào khoảng
05-06 h LT, phù hợp với tiến trình ngày đêm của TEC thu được từ mô hình toàn
cầu. Biến thiên ngày đêm của TEC theo vĩ độ cho thấy rằng miền Bắc nước ta nằm
ở khu vực đỉnh dị thường xích đạo của lớp F điện ly, biên độ biến thiên ngày đêm
của TEC lớn hơn hẳn các vùng vĩ độ khác, do đó ảnh hưởng của tầng điện ly tới
việc xác định tọa độ bằng GPS sẽ rất quan trọng, cần phải được chú ý tới để
nâng cao độ chính xác các phép đo trắc địa hiện đại bằng các máy thu GPS một
tần số bỏ qua ảnh hưởng của tầng điện ly hoặc đưa vào hiệu chỉnh điện ly bằng
một mô hình nhất định. Một số hướng nghiên cứu mới về TEC từ số liệu GPS khu vực
Đông
I. MỞ ĐẦU
Hệ thống định vị toàn
cầu (Global Positioning System - GPS) hiện nay gồm 29 vệ tinh bay ở độ cao
khoảng 20.200 km trong 6 mặt phẳng quỹ đạo với độ nghiêng của các mặt phẳng quỹ
đạo là 55°. Mỗi vệ tinh phát ra các thông tin với mục đích định vị trên hai
sóng mang liên kết L1 và L2 trong dải L. Hai tần số mang
f1 và f2 được suy từ tần số cơ bản fo = 10,23 MHz
(f1 = 154fo = 1575,42 MHz; f2 = 120fo =
1227,60 MHz). Hai mã tín hiệu được sử dụng: mã C/A được điều biến ở sóng mang f1
với tốc độ chip là 1,023 Mbps, tương ứng bằng một phần mười tần số cơ bản fo;
mã P (chính xác) được điều biến trên cả hai sóng mang f1 và f2
với tốc độ chip là 10,23 Mbps. Các tín hiệu thu được ở các trạm thu dưới mặt đất
phụ thuộc nhiều yếu tố: khoảng cách giữa máy thu và vệ tinh, tầng điện ly, tầng
đối lưu, độ lệch của đồng hồ máy thu và đồng
hồ trên các vệ tinh, các độ lệch do thiết bị trên vệ tinh và máy thu... Do bản
chất tán xạ sóng điện từ của tầng điện ly, hiệu ứng điện ly có thể được đánh
giá bằng tổ hợp tuyến tính các phép đo giả khoảng cách và các phép đo pha mang
một cách đồng thời ở hai tần số nêu trên. Nghĩa là nhờ các tín hiệu thu được
của các máy thu GPS hai tần số có thể đưa tới khả năng tính toán được hàm lượng
điện tử tổng cộng tầng điện ly (Total Electron Content - TEC), một thông số
quan trọng trong nhiều vấn đề nghiên cứu liên quan tới tầng điện ly như các
hiện tượng liên quan tới từ trường Trái đất [4-6, 9, 11, 13], mối quan hệ giữa
các biến động trong tầng điện ly và các hiện tượng trong vỏ Trái đất (động đất)
[2, 10, 12, 14, 15], hiện tượng nhật thực [8]... Trong khuôn khổ hợp tác khoa
học giữa Viện Vật lý địa cầu (với sự cộng tác của Trường Đại học Khoa học Huế
và Phân viện Vật lý thành phố Hồ Chí Minh) và Trường Đại học tổng hợp Rennes 1,
Trường Viễn thông quốc gia Brest (Cộng hòa Pháp), 3 trạm thu tín hiệu vệ tinh
GPS được đặt tại Hà Nội (21°02’50” B, 105°47’59” Đ - từ 26/03/2005), Huế
(16°27’33” B, 107°35’33” Đ - từ 13/01/2006) và Hóc Môn (10°50’54” B, 106°33’35”
Đ - từ 25/04/2005). Việc sử dụng công nghệ GPS theo hướng nghiên cứu tầng điện
ly là một lĩnh vực hoàn toàn mới ở Việt
II. PHƯƠNG PHÁP
XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG ĐIỆN TỬ TỔNG CỘNG TẦNG ĐIỆN LY TỪ SỐ LIỆU GPS
Tín hiệu phát ra từ các
vệ tinh GPS truyền tới các trạm thu đặt dưới mặt đất bị ảnh hưởng cả bởi môi trường
không gian và các thiết bị. Vì vậy, quãng đường mà tín hiệu điện từ truyền từ
vệ tinh thứ i tới máy thu thứ j sẽ không đúng bằng khoảng cách thực giữa vệ
tinh và máy thu, và khoảng cách tín hiệu điện từ đi được như vậy được gọi là
giả khoảng cách (pseudo-range). Gọi và
là giả khoảng cách
giữa vệ tinh i và máy thu j đối với các tần số f1 và f2,
chúng ta có [7]:
(1a)
(1b)
trong đó so là khoảng cách thực giữa
máy thu và vệ tinh; dion, dtrop là các hiệu ứng do tầng điện
ly và tầng đối lưu khí quyển; c là vận tốc ánh sáng trong chân không; t là độ lệch đồng hồ vệ
tinh và máy thu; dq độ lệch do thiết bị vệ tinh và máy thu; dres
là độ lệch do các nguyên nhân khác.
Tầng điện ly có ảnh hưởng
như là một môi trường tán xạ đối với các tính hiệu GPS, nhưng tầng đối lưu thì
không gây tán xạ. Như vậy, ảnh hưởng của tầng đối lưu trong giả khoảng cách có
thể được loại bỏ bằng bằng cách trừ (1a) cho (1b) một cách tương ứng.
Theo công thức
(2)
trong đó sl là khoảng cách biểu kiến
giữa máy thu và vệ tinh, N là mật độ điện tử tính bằng electron/m2,
f là tần số sóng vô tuyến tính bằng Hz, trục l là trục nối vệ tinh - máy thu.
Tổ hợp (1) và (2), chúng ta có:
(3)
trong đó ki và kj
là độ lệch do thiết bị vệ tinh và máy thu.
Độ lệch do thiết bị vệ
tinh được thông báo hàng ngày bởi Trung tâm Dịch vụ GPS quốc tế và có thể tải
xuống từ địa chỉ sau: ftp://cddis.gsfc.nasa.gov/gps/products/ionex. Độ lệch do
máy thu về nguyên tắc được cung cấp bởi nhà sản xuất máy GPS, nhưng phần lớn
trong các nghiên cứu độ lệch này được xác định trong quá trình xử lý số liệu
quan sát thực tế bằng những thuật toán xác định [16].
Hình
1. Mô hình lớp đơn điện ly
Vì một vệ tinh đi từ
chân trời tới thiên đỉnh, nên TEC thu được được gọi là TEC nghiêng. Tuy nhiên,
các nhà khoa học thấy rằng hữu hiệu hơn là điều chỉnh về mặt toán học TEC thu được
tại điểm dưới tầng điện ly được coi như là TEC thẳng đứng (TECV). Chúng ta có
thể thu được mối liên hệ giữa TEC nghiêng thu được ở trên với TEC thẳng đứng
bằng mô hình lớp đơn điện ly như sau. Trên Hình 1, gọi s là vị trí của một vệ
tinh GPS, r là vị trí máy thu, Re là bán kính Trái đất, hion
là độ cao của tầng điện ly lớp đơn (thường lấy hion = 400 km), ip là
điểm cắt của đường thẳng sr và lớp điện ly, z là góc thiên đỉnh của vệ tinh ở
vị trí máy thu (phần phụ của góc ngẩng a của vệ tinh ở vị trí
máy thu), z’ là góc thiên đỉnh của vệ tinh ở điểm cắt lớp điện ly ip, mối liên
hệ giữa TEC nghiêng và TECV được biểu diễn bởi công thức:
TECV = TEC*cosz’ (4)
trong đó z’ được xác định từ công thức:
(5)
Để cho tiện, sau này khi
chúng ta nói tới TEC là ngụ ý nói về TEC thẳng đứng, trừ khi cần thiết phân
biệt rõ TEC nghiêng và TEC thẳng đứng sẽ nói cụ thể hơn.
III. THIẾT BỊ VÀ
SỐ LIỆU QUAN SÁT
Các máy thu GPS đặt ở ba
trạm của nước ta là loại máy thu hiệu
Hình
2. Sự phụ thuộc của số vệ tinh GPS nhìn
thấy được ở 3 trạm GPS Hà Nội, Huế
và Hóc Môn theo thời gian trong ngày
Tại mỗi thời điểm một
máy thu có thể quan sát được số lượng vệ tinh GPS nhất định phụ thuộc vào vị
trí địa lý của máy thu. Hình 2 là ví dụ về số vệ tinh nhìn thấy được tại các
thời điểm trong ngày
IV. XỬ LÝ VÀ PHÂN
TÍCH SỐ LIỆU
Hình 4 trình bày số liệu
TEC thu được ở 3 trạm Hà Nội, Huế và Hóc Môn, 3 hình ở trên là TEC thu được từ
phần mềm parseismr.exe đã được chuyển về TEC thẳng đứng theo công thức (4), 3
hình bên dưới là TEC tính được theo công thức (3) cũng được chuyển về TEC thẳng
đứng, đơn vị TEC là TECU bằng 1016 electron/m2. Rõ ràng
số liệu TEC thu được từ phần mềm đi kèm với máy GSV4004 có độ phân tán lớn hơn
nhiều TEC tính được theo các công thức (3) và (4), do vậy chúng tôi không sử
dụng kết quả tính TEC từ phần mềm đi kèm máy trong các phân tích tiếp theo. Như
đã nêu, tín hiệu truyền từ các vệ tinh GPS tới các máy thu bị ảnh hưởng bởi
nhiều hiện tượng khác nhau, ví dụ hiệu ứng nhiều đường (multipath) do tia sóng
có thể bị phản xạ nhiều lần trong tầng điện ly trước khi đi tới máy thu, hiện tượng
nhảy pha... khi đó việc tính toán TEC theo (3) sẽ không còn đúng. Trên Hình 4,
chúng ta cũng quan sát thấy rất rõ một số điểm TEC tính được lệch hẳn so với xu
thế chung, các điểm này thường ứng với góc ngẩng của vệ tinh nhỏ (hiện tượng
nhiều đường có thể dễ xảy ra), do vậy chúng tôi sẽ loại trừ các giá trị TEC
tính toán được với góc ngẩng vệ tinh trong các phân tích
tiếp theo.
Hình
3. Vết của các vệ tinh GPS trên tầng điện
ly ở độ cao 400 km quan sát được
từ 3 trạm thu tín hiệu vệ tinh tại Hà Nội, Huế và Hóc Môn ngày 15/01/2006
Hình
4. TEC quan sát được tại các trạm Hà Nội,
Huế và Hóc Môn ngày 15/01/2006,
thu được từ phần mềm parseismr.exe (3 hình trên) và theo kết quả tính toán
trong bài báo
(3 hình vẽ dưới)
Để xác định độ lệch do
phần cứng máy thu (receiver biais), chúng tôi tiến hành so sánh các giá trị TEC
thẳng đứng trung bình tính toán được trong khoảng thời gian 23-01 h LT với các
giá trị TEC thẳng đứng tính được từ các mô hình toàn cầu ở cùng thời điểm và ở
cùng vị trí trong nhiều ngày. Giá trị hiệu chỉnh do các máy thu tính được cho
khoảng thời gian 2 tuần từ 15/01 đến
Hình
5. TEC thẳng đứng tại các trạm Hà Nội,
Huế và Hóc Môn ngày . Đường liền nét gẫy khúc là TEC trung bình từng phút đối với
tất cả các vệ tinh. Đường liền nét trơn là TEC thẳng đứng tính được từ mô hình
TEC toàn cầu
Từ Hình 5 chúng ta thấy
rõ các giá trị TEC lệch xa so với xu thế chung ở Hình 4 đã không còn. Xu thế
biến thiên của TEC trung bình tính được từ số liệu 3 trạm GPS ở nước ta khá phù
hợp với xu thế biến thiên của TEC tính từ mô hình toàn cầu. Những sai lệch của
TEC trung bình tính được từ số liệu quan sát với TEC từ mô hình toàn cầu phản
ánh những biến đổi TEC có tính khu vực mà mô hình toàn cầu không thể phản ánh được.
Tiến trình ngày đêm của TEC trung bình trong ngày 15/01/2006 tại 3 trạm ở nước
ta có nét chung là đều đạt cực đại vào khoảng 06 h UT (13 h LT) và cực tiểu vào
khoảng 22-23 h UT (05-06 h LT), biên độ ngày đêm ở Hà Nội lớn hơn rõ rệt so với
ở Hóc Môn; vào những giờ ban ngày (00h-13hUT) sự biến đổi của TEC theo thời
gian ở khu vực Hà Nội cũng lớn hơn hẳn so với ở Hóc Môn. Biến thiên ngày đêm
theo vĩ độ của TEC từ số liệu thu được của ba trạm Hà Nội, Huế và Hóc Môn được
trình bày trên Hình 6. Đường nét gạch trên Hình 6 ở khoảng vĩ độ 8°N là vị trí
của xích đạo từ niên đại 2005,0. Từ Hình 6 chúng ta thấy rằng có vùng cực đại
rõ rệt của TEC vào khoảng 13 h LT ở khoảng vĩ độ 17° đến 22°B, khu vực được
biết là đỉnh ở bán cầu Bắc của dị thường lớp F điện ly xích đạo do hiệu ứng vòi
phun [18]. Như thế, rõ ràng là kết quả TEC thu được từ ba trạm GPS của nước ta
sẽ tạo nên một cơ sở dữ liệu quan trọng cho các nghiên cứu động lực học tầng điện
ly xích đạo ở khu vực kinh tuyến 105°Đ, nơi có cường độ dòng điện xích đạo mạnh
nhất so với các vùng kinh tuyến khác trên phạm vi toàn cầu [1].
Việc xây dựng các bản đồ
TEC khu vực Việt Nam và các vùng kế cận tại một thời điểm nhất định không thể
thực hiện được với số liệu chỉ của 3 trạm GPS ở nước ta, như đã thấy ở Hình 2,
tại mỗi thời điểm mỗi máy thu chỉ có thể quan sát được tín hiệu của nhiều nhất
là 11 vệ tinh, trên vùng khá rộng bao trùm cả khu vực Đông Nam Á (Hình 3). Điều
này chỉ có thể thực hiện được nếu có thêm số liệu GPS ở các nước trong khu vực
như: Trung Quốc, Philippin, Thái Lan, Malaysia, Inđonesia... cũng như kết hợp
sử dụng số liệu TEC tính được từ việc xác định khoảng cách từ các vệ tinh, kiểu
như TOPEX/Poseidon, Jason-1... tới mặt nước của các đại dương. Đây cũng là một
vấn đề nghiên cứu cần đặt ra trong tương lai.
Hình
6. Biến thiên ngày đêm theo vĩ độ của TEC
khu vực Việt Nam
và các vùng kế cận theo số liệu các trạm GPS Hà Nội, Huế và Hóc Môn
V. KẾT LUẬN
Bài báo giới thiệu một
quy trình xử lý số liệu GPS để thu được hàm lượng điện tử tổng cộng tầng điện
ly và minh họa kết quả với ngày
Tiến trình ngày đêm của
TEC quan sát được từ các trạm thu GPS Hà Nội, Huế và Hóc Môn phù hợp với tiến
trình ngày đêm của TEC thu được từ mô hình toàn cầu khẳng định độ tin cậy của
các số liệu thu được cũng như quy trình xử lý tính toán TEC.
Biến thiên của TEC quan
sát được cho thấy rằng vào ban ngày TEC biến đổi mạnh hơn nhiều so với ban đêm.
Phía Bắc nước ta nằm ở vùng đỉnh cực đại của dị thường mật độ điện tử lớp F điện
ly xích đạo do hiệu ứng vòi phun, do đó ảnh hưởng của tầng điện ly tới kết quả
xác định toạ độ bằng GPS đóng vai trò rất quan trọng. Với các phép đo tọa độ
dùng GPS một tần số, ở khu vực nước ta ảnh hưởng của tầng điện ly sẽ cực tiểu
nếu tiến hành các phép đo vào ban đêm từ 22 tới khoảng 6 h (giờ địa phương).
Hình thái cấu trúc biến
thiên ngày đêm theo vĩ độ của TEC ở nước ra cho thấy các số liệu TEC thu được
từ số liệu GPS cùng với các số liệu địa từ, thăm dò thẳng đứng tầng điện ly ở
Việt Nam sẽ góp phần thúc đẩy các nghiên cứu động lực học điện ly xích đạo ở
khu vực Đông Nam Á và thế giới.
Công nghệ GPS là một
công nghệ hiện đại được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trên thế giới thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau. Biến đổi của TEC còn có thể liên quan tới nhiều hiện tượng vật lý khác không liên quan
tới hoạt động của Mặt trời [17] cần được tìm hiểu. Việc đặt ba trạm thu tín
hiệu vệ tinh GPS liên tục ở Hà Nội, Huế và Hóc Môn là một đóng góp quan trọng
trong việc đẩy mạnh các nghiên cứu vật lý địa cầu ở nước ta và tạo cơ hội cho
việc phát triển hợp tác nghiên cứu khoa học vật lý địa cầu khu vực Đông Nam Á
và thế giới.
Lời cám ơn: Các tác giả bày tỏ lòng cám ơn Ban Giám
hiệu Trường Đại học Khoa học Huế đã tạo mọi điều kiện cho việc đặt trạm thu GPS
trong cơ sở của Trường. Bài báo được hoàn thành với sự trợ giúp kinh phí của
Hội đồng Khoa học Tự nhiên.
VĂN LIỆU
1. Doumouya V. and Y. Cohen, 2004. Improving and
testing the empirical equatorial electrojet model with CHAMP satellite data. Annales Geophysicae,
22 : 3323-3333.
2. Fujiwara H. et al., 2004. Atmospheric anomalies observed
during earthquake occurences. Geophys. Res. Lett., 31, L17110,
doi : 10.1029/2004GL019865.
3. Huang C. R. et al., 1999. A study of tomographically
reconstructed ionospheric images during a solar eclipse, J. Geophys. Res., 104/A1 : 79-94.
4. Lee C. C. and J. Y. Liu, 2002. The propagation of traveling atmospheric disturbances
observed during the
5. Lin C.H. et al., 2005. Large-scale variations of the
low-latitude ionosphere during the October - November 2003 seperstorm:
Observational results. J. Geophys.
Res., 110, A09S28, doi:10.1029/2004JA010900.
6. Lin C. H. et al., 2005. Large-scale variations of the
low-latitude ionosphere during the October-November 2003 superstorm:
Observational results. J. Geophys. Res., 110, A09S28, doi:10.1029/2004
JA010900.
7. Liu J. Y., H. F. Tsai and T. K. Jung, 1996. Total electron
content obtained by using the global positioning system. TAO, 7/ 1 :
07-117.
8. Liu J. Y., H. F. Tsai, L. C. Tsai and M. Q. Chen, 1999. Ionospheric total electron
content observed during the
9. Liu J. Y. et al., 1999. The effect of geomagnetic storm on
ionospheric total electron content at the equatorial anomaly region. Adv. Space Res., 24/11 : 1491-1494.
10. Liu J. Y. et al., 2001. Variations of ionospheric total
electron content during the Chi-Chi earthquake. Geophys. Res. Lett., 28/7 : 2383-1386.
11. Liu L. et al., 2002. Low latitude ionospheric effects
near longitude 120°E during the great geomagnetic storm of July 2000. Science in
12. Liu J. Y. et al., 2002. A study on the TEC pertubations prior to
the Rei-Li, Chi-Chi and Chia-Yi Earthquakes. Seismo Electromagnetic : Lithosphere-Ionosphere Coupling, Eds. M.
Hayakawa and O. A. Molchanov : 297-301.
13. Liu J. Y., C. H. Lin, H. F. Tsai and Y. A. Liu, 2003. Ionospheric solar flare effects
monitored by the ground-based GPS receivers - Theory and observations. J. Geophys. Res. Space Physics.
14. Liu J. Y., Y. I. Chen, H. K. Jhuang and Y. H. Lin, 2004.
Ionospheric foF2 and TEC anomalous days associated with M³5.0
earthquakes in
15. Liu J. Y. et al., 2004. Pre-earthquake ionospheric anomalies registered by continuous GPS TEC measurements. Annales Geophysicae, 22 : 1585-1593.
16. Ma G. and T. Maruyama,
2002. Derivation of TEC and estimation of instrumental biais from GEONET in
17. Pulinets S. A. and J. Y. Liu, 2004. Ionospheric variability
unrelated to solar and geomagnetic activity. Adv. Space Res., 34 : 1926-1933.
18. Rishbeth H., 2000. The equatorial F-layer: Progress and
puzzles. Ann. Geophys., 18 : 730-739.