TRAO ĐỔI Ý KIẾN
VỀ
QUYỂN GIÁO TRÌNH “ĐỊA CHẤT KIẾN TRÚC, ĐO VẼ BẢN ĐỒ ĐỊA CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ
BẢN CỦA ĐỊA KIẾN TẠO”
NGUYỄN
XUÂN BAO
Liên đoàn Bản đồ
Địa chất miền Nam, 200, Lý Chính Thắng, TP Hồ Chí Minh
Năm 2003 Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh đã cho in và phát hành quyển sách có tựa đề trên
do PGS. TS. La Thị Chích và TS. Phạm Huy Long của Trường Đại học Bách khoa thuộc
Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh biên soạn. Quyển sách đó đã được nhiều độc giả
khen ngợi nhất là phần viết về địa kiến tạo, tuy nhiên sau khi xem tôi thấy có
những vấn đề bất cập và nổi cộm như sau:
1- Là
một quyển sách giáo khoa lẽ ra phải cung cấp những nội dung kiến thức hiện đại,
những khái niệm và thuật ngữ chuẩn xác, nhưng trong quyển sách này bộc lộ nhiều
điều sai lạc, nhầm lẫn và lỗi thời.
- Ngay
tựa đề cuốn sách đáng lẽ là “địa chất cấu tạo” thì viết là
“địa chất kiến trúc”. Một cách chính thức và cố ý tác giả đã mô tả
“kiến trúc đường”, “kiến trúc mặt”,
“kiến trúc khối”, “các kiến trúc lớp,
nếp uốn, khe nứt, đứt gãy”, “các kiến trúc đai động, nền”, v.v… Nói
là cố ý vì tác giả đã tham khảo sử dụng rộng rãi
“Giáo trình địa chất cấu tạo” của Lê Như Lai (Nhà xuất bản Xây dựng, 1991).
Có lẽ vốn là nhà thạch học, tác giả quen dùng thuật ngữ “kiến trúc” trong thạch học hiển vi mà
người Nga gọi là “struktura”, trong khi người Anh và phần lớn thế giới còn lại
gọi đó là “texture”, từ đó chuyển thuật ngữ này sang lĩnh vực địa chất cấu tạo,
ở đó cả Đông lẫn Tây đều chỉ dùng từ “structure - strucktura”. Mặc dù vậy, các
tác giả vẫn không nhất quán dùng từ “kiến trúc” khi viết “cấu tạo tuyến tính và dạng mặt” (trang 215),
“cấu tạo không chỉnh hợp địa tầng” (trang
67), “các cấu tạo bọt, xỉ, dòng chảy của
đá phun trào” (trang 202), “cấu tạo bên trong của khối xâm nhập”,“cấu
tạo định hướng”
(trang 216), “cấu tạo phân phiến, cấu
tạo dạng dải, cấu tạo gơnai” (trang 229),
“cấu tạo dải, cấu tạo đường’’ (trang
230), “cấu tạo khúc dồi” (trang 231),
“cấu tạo đặc trưng của đá biến chất” (trang 238). Ở các phần ba và bốn thuật
ngữ “cấu tạo” với nghĩa tương tự cũng xuất
hiện không ít (các trang 423, 424, 425, 446, 447, 448, 466, 467, 468,…). Nhìn
chung, việc dùng thuật ngữ trong quyển sách là tùy tiện, thiếu cân nhắc và không
nhất quán.
- Thuật ngữ lineament
được hiểu phổ biến là đường nét địa hình dạng tuyến kéo dài với quy mô khu vực
và không nhất thiết có bản chất kiến tạo, nhưng tác giả quả đã rất bạo gan khi
khẳng định: “Trong cuốn sách này chúng tôi đồng nhất
khái niệm đứt gãy sâu với lineament và gọi chung là đứt gãy sâu” (trang
377). Tiếp đó là một câu mơ hồ: “Tuy nhiên
khi chưa xác định được tính chất hành tinh của đứt gãy sâu thì có thể dùng thuật
ngữ lineament để miêu tả chúng”. Khái niệm “dựa vào độ sâu người ta chia đứt gãy sâu ra
các đứt gãy sâu nội thạch quyển (cấp 2,3), đứt gãy sâu xuyên thạch quyển (cấp
1), khi người ta thấy dọc theo đứt gãy
có nhiều biểu hiện hoạt động của magma granit hoặc magma bazan,v.v..” (trang
377) là rất lỗi thời và sai lầm khi xét từ quan điểm của kiến tạo mảng và địa
chất cấu tạo hiện đại.
- Đeo
bám vào nhận thức đã từng thống trị ở Liên Xô vào giữa thế kỷ trước, các tác giả
cho rằng: “giả thuyết lớp phủ chưa đứng
vững được do còn nhiều quan điểm phải tranh cãi. Chắc chắn là có lớp phủ, nhưng
chúng không đóng vai trò chính trong kiến trúc các miền nếp uốn” (trang
184). Nhận định này hoàn toàn xa lạ với hiểu biết hiện nay, theo đó các lớp phủ
không phải là giả thuyết mà là thực tế hiển nhiên và phổ biến, được mô tả và
thừa nhận ở hầu hết các đai tạo núi, chứ không chỉ riêng có ở Alpes và Karpates.
-
Trong quyển sách trình bày dàn đều, tyhậm chí thiên lệch về các cấu tạo nguyên
sinh của các thành tạo trầm tích, magma và biến chất, nhưng các cấu tạo thứ sinh
do biến dạng chỉ được trình bày lướt qua. Ở đây thiếu nhiều kiến thức hiện đại
về các đới cắt (shear zone) và đứt gãy trượt bằng (strike-slip faults), các đứt
gãy cung thoải (listric fault), đứt gãy nghịch hướng (antithetic faults) và đứt
gãy đế (sole faults) rất phổ biến trong các đứt gãy thuận: các cấu tạo miền bồn
và dãy núi (the basin and range province) và phức hệ nhân biến chất (metamorphic core complexes) thường phát triển ở các miền
căng giãn vỏ lục địa; các cấu tạo cùng hướng (synthetic), đai vảy chờm (fold and
thrust belts), lợp ngói (imbrication), chồng đôi (duplex), mặt bong tách
(detachement horizon hay decollement plane), đứt gãy chờm đế (sole thrust), các
nếp vồng giả (antiform), nếp máng giả (synform), … thường gặp trong các đai tạo
núi siết ép, v.v… Trong các giáo trình địa chất cấu tạo ở các nước tiên tiến
hiện nay người ta tránh lặp lại việc trình bày các cấu tạo nguyên sinh mà quyển
sách này gọi là “dạng nằm của các đá”, vì chúng ta đã
được đề cập chi tiết một cách nhất thiét ở tất cả các giáo trình thạch học và
thạch luận đá trầm tích, magma và biến chất hoặc địa chất đại cương, để tập
trung đề cập cặn kẽ không những các cấu tạo biến dạng mà cả các điều kiện và bối
cảnh hình thành ra chúng, các hệ quả tạo bồn và tạo núi, các mối liên hệ nhân
quả và sự kết hợp lẫn nhau giữa chúng.
- Các
kiến thức về đo vẽ địa chất được thiết kế trình bày ở cả phần bốn của quyển
sách, nhưng không ít nội dung lặp lại những điều đã được nói tới rải rác ở các
phần một và hai. Rõ ràng hai tác giả đã thiếu sự phối hợp chặt chẽ với nhau
trong việc soạn thảo nên đã tạo ra sự trùng lặp này. Điều đáng nói là trong
quyển sách không trình bày rõ ràng và rành mạch các yêu cầu phân chia và khái
niệm các đơn vị đo vẽ địa chất trong điều tra các thành tạo phân tầng và không
phân tầng, thiếu sự nhấn mạnh cần thiết phải sử dụng phép phân loại thạch địa
tầng. Sự phân chia các đơn vị thời địa tầng trên bản đồ, cột địa tầng và mặt cắt
như ở hình vẽ minh họa 5.1 (trang 75), được sao chép từ giáo trình cũ kỹ nào đó,
là không phù hợp với quy chế đo vẽ hiện hành ở nước ta.
- Bảng thời địa tầng
quốc tế (phụ lục 1, các trang 473-475) có những chi tiết không đúng và lỗi thời,
như chia đệ tứ ra làm 4 với các ký hiệu QI, QII, QIII, QIV
thay vì ra làm 2 với các ký hiệu Q1, Q2; ký hiệu của
Paleogen là P thay vì E; tương tự chia và đánh ký hiệu sai cho Permi, Carbon,
Silur và Cambri.
- Trong cuốn sách rất
hiếm trình bày các thí dụ minh họa, mà nếu có thì toàn là các thí dụ ở Liên Xô
cũ (các trang 200, 212, 219, 223…), trong lúc không thiếu thí dụ sinh động đã
biết qua thực tiễn lâu dài điều tra địa chất Việt Nam. Ngay hình vẽ ở bìa sách
cũng phải lấy một hình nếp uốn từ Tây Nam nước Anh.
2- Điều đặc biệt đáng
phàn nàn là ở phần ba (Một số vấn đề cơ bản của địa kiến tạo) và phần bốn (Tổ chức công tác đo vẽ bản đồ địa chất)
người biên soạn đã bê vào quyển sách của mình gần như nguyên văn nhiều chương
mục, hình vẽ trích từ quyển “Địa kiến tạo
và sinh khoáng” của Lê Như Lai (1998), Nhà xuất bản Giao thông vận tải) và
quyển “Kiến tạo mảng và bản đồ kiến tạo” của
Nguyễn Xuân Bao (2002, Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam lưu hành nội bộ) mà
không hề ghi một lời tham khảo sử dụng như thế nào hai quyển sách này. Tác giả
quyển sách đã chép lại hết chục trang này đến chục trang khác, khi thì để nguyên
từng dấu chấm, dấu phẩy, khi thì tùy tiện sửa đổi thêm, bớt vài từ, khi thì cố ý
lập lờ sắp xếp đoạn trước ra đoạn sau, gây ra các bất hợp lý hoặc trùng lặp,
thiếu mạch lạc trong bố cục.
Để cho ra đời một cuốn
giáo trình với những bất cập về nội dung và nổi cộm về cách làm như trên, rõ
ràng việc tổ chức thẩm định và biên tập xuất bản quyển sách đã làm chưa tốt.
Mong rằng trên thị trường và các kệ sách giáo khoa sẽ không có thêm các quyển
sách nào như thế.
Người biên tập: Nguyễn Thành Vạn