TRẦN QUỐC CƯỜNG
Trung tâm Viễn thám và Geomatic (VTGEO), Viện Địa
chất,
Viện KH & CN VN, Hoàng Quốc Việt, Hà Nội
Tóm tắt: Hoạt
động khai thác than tại vùng Cẩm Phả - Cửa Ông đã tác động rất lớn đến môi
trường trong vùng. Có khá nhiều các nghiên cứu về vùng này đã đề cập tới vấn đề
trên, nhưng việc ứng dụng hệ thông tin địa lý và viễn thám trong nghiên cứu tác
động môi trường liên quan tới khai thác than còn ở mức hạn chế.
Bài
báo này trình bày kết quả nghiên cứu tác động của khai thác than lộ thiên tới
địa hình và đường bờ bằng việc phân tích các tư liệu viễn thám năm 1969, 1993 và
2001. Việc luận giải bằng mắt thường được kết hợp với các
phương pháp xử lý số nhằm có được kết quả chính xác nhất. Phương pháp nghiên cứu trình bày trong bài báo có thể áp dụng ở
những vùng khai thác than khác ở nước ta.
Hoạt động khai thác than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã tác
động rất lớn tới môi trường khu vực, trong đó có sự biến đổi địa hình, đặc biệt
là từ những cuối những năm 1960 khi hoạt động khai thác được mở rộng [Đặng Văn
Bát, 1999, Lưu trữ Đại học MĐC; Ngô Phúc Hưng và nnk, 1990, Lưu trữ Bộ Công
nghiệp]. Các bãi thải và diện tích đổ thải ngày càng phát
triển, việc bồi lấp sông suối và bãi biển trong vùng diễn ra với tốc độ nhanh.
Các nghiên cứu có trước về tác động do khai thác than tới môi trường tại vùng
nghiên cứu đã đề cập tới vấn đề nêu trên. Tuy nhiên việc xử lý ảnh viễn thám và
phân tích thông tin trên hệ thông tin địa lý (GIS) liên quan tới ảnh hưởng của
khai thác than tới địa hình mới chỉ được áp dụng trong khoảng thời gian gần đây
và còn hạn chế ở việc phân tích ở từng thời điểm riêng biệt.
Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của khai
thác than lộ thiên tới biến động địa hình bằng tư liệu viễn thám và GIS trên
khía cạnh biến động cao trình của mỏ, diện tích bãi thải và đường bờ biển ở thị
trấn Cẩm Phả - Cửa Ông. Việc kết hợp viễn thám và GIS nhằm định
lượng các biến động địa hình và đường bờ tại vùng nghiên cứu là một hướng tiếp
cận mới nhằm nâng cao khả năng đánh giá tình hình môi trường vùng khai thác
than.
II. VÙNG VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
Phạm vi và dữ
liệu vùng nghiên cứu
Vùng nghiên cứu Cẩm Phả - Cửa Ông thuộc bể than Quảng Ninh
(Hình 1).
Dữ liệu viễn thám được thể hiện trong bảng 1. Dữ liệu GIS bao gồm các lớp thông tin về
địa hình, thủy văn, giao thông, điểm độ cao tỷ lệ 1:25000. Nguồn dữ liệu khác lấy từ Chương trình 364, Văn phòng Chính phủ hoàn
thành năm 2000. Dữ liệu thực địa do tác giả thực hiện tháng 4/2003 với 15
điểm khảo sát và 90 ảnh chụp.
Bảng 1. Dữ liệu viễn
thám sử dụng trong nghiên cứu
Loại tư liệu viễn thám |
Tên ảnh / ký hiệu ảnh |
Thời gian chụp |
Tỷ lệ hoặc độ |
Ảnh máy bay |
B6-12-1969 |
12/1969 |
|
F5-93 |
5 /1993 |
|
|
Ảnh vệ tinh |
Ảnh LandSat 7 (Path 125, Row 45) |
16/11/ 2001 |
30 m (ảnh đa phổ) 15 m (ảnh toàn sắc) |
III. CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU
Trong hoạt động khai thác than, các tác động địa chất của
con người vào địa hình bao gồm các yếu tố chính là phá hoại cơ học, vận chuyển
vật liệu tạo nên các địa hình âm - moong khai thác và địa hình dương -bãi thải.
Bãi thải than, vật liệu thải trong quá trình sàng tuyển cung cấp nguồn vật liệu
và góp phần gia tăng hiện tượng lắng đọng trầm tích tại các sông suối, bồi lấp
kênh mương, gây biến đổi đường bờ [Đặng Văn Bát, 1999, Lưu trữ Đại học MĐC].
Kết quả của các tác động này đều có thể phát hiện được trên
tư liệu viễn thám thông qua các dấu hiệu trực tiếp (như hình dạng, tông ảnh,
bóng địa vật), các dấu hiệu gián tiếp khác và tính đa thời gian của tư liệu viễn
thám.
Thông tin luận giải dữ liệu viễn thám được phân tích bằng hệ
thông tin địa lý trên cơ sở hiểu được mối tương quan của các quá trình kể trên
với nhau. Đối với nghiên cứu này, việc phân tích có thể được trình bày như sau: biến động địa hình do khai thác than = F (biến động mỏ khai thác lộ thiên,
biến động bãi thải, bồi lắng vật liệu thải, biến đổi đường bờ).
Có thể tóm tắt quá trình nghiên cứu nêu trên trong hình 2.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp luận giải ảnh viễn thám
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, ảnh máy bay và ảnh vệ
tinh LandSat được xử lý trên phần mềm PCI và Rubber Map. Một cặp ảnh lập thể vùng mỏ Cọc 6, Đèo
Nai được sử dụng để lập mô hình số địa hình bằng phần mềm PCI. Ảnh vệ
tinh được nắn chỉnh hình học theo dữ liệu vectơ với sai
số nhỏ hơn kích thước 2 pixel.
Bảng 2. Vai trò của dấu hiệu ảnh trong luận giải mắt
thường tại vùng nghiên cứu
Đối tượng |
Mô hình lập thể |
Hình dạng |
Tông ảnh |
Kiến trúc |
Hoa văn |
Kích thước |
Vị trí |
Đa |
Mỏ khai thác lộ thiên |
*** |
*** |
** |
* |
* |
* |
* |
** |
Bãi thải than |
** |
*** |
** |
** |
* |
* |
** |
** |
Các
quá trình ngoại sinh hiện đại |
** |
*** |
** |
*** |
** |
* |
** |
*** |
Chú
thích vai trò: * bổ sung; ** thứ yếu; ***
chủ yếu
a. Luận giải ảnh bằng mắt thường
Ảnh máy bay sử dụng cho luận giải mắt thường được nắn chỉnh
bằng phần mềm Rubber Map. Việc sử dụng phần mềm này tuy không
đạt độ chính xác cao như nắn ảnh trực chiếu, nhưng có thể ứng dụng cho luận giải
ảnh mắt thường.
Kết hợp nhiều loại dấu hiệu trong luận giải là việc cần thiết
nhằm nhận dạng các đối tượng khác nhau.
Bản đồ hiện trạng môi trường vùng nghiên cứu các năm 1969,
1993 được thành lập từ sự luận giải ảnh máy bay các năm 1969 và 1993 (Hình 4, 5). Ảnh vệ tinh LandSat năm 2001 được sử dụng
để xác định ranh giới bờ mỏ các mỏ Đèo Nai và Cọc Sáu.
Khi xây dựng các bản đồ hiện trạng môi trường liên quan tới
khai thác than cho mỗi thời kỳ, tác giả xây dựng bản đồ trên quan điểm nguồn gốc
hình thái kết hợp với quan điểm địa chất môi trường. Với mục đích đó, để
làm nổi bật tác động nhân sinh tới môi trường trong khu vực, thì ngoài các kiểu
địa hình thành tạo do tác động của tự
nhiên thì các dạng địa hình đã được cải tạo do bàn tay con người được gộp chung
thành địa hình nhân sinh. Các kiểu địa hình được thành tạo hoặc chịu tác động lớn của quá
trình khai thác than sẽ được nhấn mạnh.
Để kiểm chứng kết quả và
thu thập thông tin thực địa vùng nghiên cứu, tác giả đã
tiến hành khảo sát thực địa với tổng số 15 điểm kiểm tra. Thông tin của các điểm
được chuyển vào cơ sở dữ liệu GIS của vùng nghiên cứu phục vụ luận giải ảnh và
phân tích thông tin (Hình 3).
b.
Xử lý ảnh số - chiết suất đường bờ năm 2001
Trên nguyên tắc, vệ tinh quang học chụp được các đối tượng
trên mặt đất bao gồm đất, nước và thực vật. Sở dĩ ảnh vệ tinh quang học có thể phân biệt được các đối
tượng nêu trên là do khả năng phản xạ ánh sáng mặt trời của chúng khác nhau.
Nghĩa là, trên các kênh ảnh khác nhau, một đối tượng sẽ có các giá trị số
(digital number) khác nhau. Sự khác biệt này là cơ sở
để tiến hành luận giải mắt thường và xử lý số với ảnh vệ tinh trong nghiên cứu.
Việc xử lý số được tiến hành trên ảnh vệ tinh LandSat năm
2001. Với mục tiêu chiết suất ranh giới nước và đất, tác giả đã
sử dụng phương pháp chiết suất đường bờ từ ảnh LandSat do G. Winasor và
Phương pháp này tiến hành chiết xuất ranh giới đất-nước trên
cơ sở thống kê giá trị phản xạ của các đối tượng trên các kênh tỷ lệ 4/2 và 5/2
(kênh 2, 4 và 5 của ảnh LandSat).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, kênh tỷ lệ b4/b2 sẽ cho ranh
giới đất và nước ở những vùng bờ có thực vật, nhưng những vùng đất không có thực
vật sẽ bị “cho” là biển.
Ngược lại kênh tỷ lệ b5/b2 sẽ thể hiện đường bờ tốt ở những
vùng không có thực vật.
Để hạn chế sai số, tác giả kết hợp đồng thời cả hai kênh
b4/b2 và b5/b2. Qua thống kê ảnh và thực hiện phân loại nhiều lần, tác giả thấy rằng
ranh giới nước và đất chỉ khó xác định ở những vùng giao nhau nước-đất (ví dụ
cửa sông, vùng có dòng bùn). Do vậy tác giả sử dụng ngưỡng lấy từ thống
kê vùng mẫu sa bồi ven biển và áp dụng vào điều kiện
sau. Giá trị kênh ảnh kết quả được ghi nhận là “đất liền” nếu giá trị pixel của
kênh b4/b2 ≥ 0,39 hoặc của kênh b5/b2 ≥ 0,42. Nếu không thỏa mãn điều kiện này thì pixel kênh ảnh kết quả được ghi
nhận là “biển”. Đường bờ thu được từ phương pháp
này được so sánh với dữ liệu đường bờ các năm 1969, 1993 từ ảnh máy bay nhằm
đánh giá xu thế phát triển của đường bờ.
Hạn chế của phương pháp này là chưa được quy chuẩn với mực
thủy triều. Tuy nhiên đặc điểm địa hình phần ven bờ tại vùng nghiên cứu có độ
dốc lớn nên mực thủy triều không ảnh hưởng lớn tới sai số của kết quả.
Bảng 3. Thống kê giá trị độ xám của đối tượng trên ảnh
LandSat vùng nghiên cứu
Tên mẫu |
Số
pixel được tính toán |
(b4/b2) |
(b5/b2) |
||
Giá
trị |
Độ
lệch chuẩn |
Giá
trị |
Độ
lệch chuẩn |
||
Nước |
2422 |
0,228 |
0,021 |
0,201 |
0,023 |
Sa bồi ven biển (vùng giao nhau nước -
đất) |
1086 |
0,394 |
0,105 |
0,419 |
0,17 |
Đất đá (vùng không bị ảnh hưởng của thủy
triều) |
825 |
1,346 |
0,226 |
1,238 |
0,272 |
Vùng lấn biển dân sinh |
52 |
0,648 |
0,074 |
0,472 |
0,05 |
2.
Phân tích thông tin
Dữ liệu trên GIS về địa
hình, đường bờ của các năm 1969 và 1993 được phân tích bằng phương pháp chồng
ghép dữ liệu, một phương pháp thông dụng trong GIS. Kết quả thu được từ việc chồng ghép được tiến hành định lượng bằng
chức năng thành lập bảng ma trận chéo (crossing table).
Trong nghiên cứu này kết quả về số liệu biến động địa hình và đường bờ vùng Cẩm
Phả - Cửa Ông giai đoạn 1969 – 1993 được trình bày trong bảng 7.
V.
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC THAN TỚI ĐỊA HÌNH VÀ ĐƯỜNG BỜ VÙNG CẨM PHẢ
- CỬA ÔNG
Biến
đổi địa hình và bãi thải do khai thác than tác động tới môi trường vùng nghiên
cứu
Biến
dạng bề mặt đất là một trong nhiều vấn đề môi trường nổi cộm nhất đối với các
vùng khai thác mỏ. Vùng
khai thác lộ thiên ở Hạ Long - Cẩm Phả cũng đã và đang phải đối mặt với vấn đề
này cùng với việc tạo ra địa hình âm là sự phát triển của các bãi thải.
Bản đồ hiện trạng môi trường các năm 1969, 1993 và thông tin từ ảnh vệ tinh năm
2001 đã được sử dụng để phân tích vấn đề này.
Dữ liệu phân tích ảnh
máy bay cho thấy diện tích bãi thải không ngừng tăng theo
thời gian (Bảng 3). Nếu năm 1969, diện tích của bãi thải
Bảng
4. Cao trình đáy moong khai thác thời kỳ 1969 và 2000 ở các
mỏ Đèo Nai, Cọc Sáu
(Dữ
liệu cao trình moong khai thác tính từ mô hình số địa hình thành lập từ cặp ảnh
máy bay năm 1969 và dữ liệu địa hình năm 2000. Người thực hiện: Trần Quốc Cường)
Dữ liệu luận giải năm
1969 và 1993 được ghép chồng để có được kết quả về biến động một số loại địa
hình vùng Cẩm Phả - Cửa Ông (Bảng 7).
Tổng diện tích bãi thải lấn biển từ năm 1969 tới năm 1993 là 89,7
ha. Qua phân tích ảnh viễn thám, tác giả nhận thấy chân của bãi thải từ nam Đèo
Nai từ năm 1993 tới năm 2003 đã tiến thêm 200 m theo hướng đông nam về phía khu
dân cư. Ngăn cách giữa khu dân cư và bãi thải hiện tại là một con đê được đắp
bằng vật liệu thải nằm về phía bắc, cạnh đường tàu hỏa. Vấn đề
trôi lấp bãi thãi mỏ đang uy hiếp trực tiếp tới đời sống của nhân dân trong các
khu dân cư kề cận với chân bãi thải. Ngoài ra, nó còn bồi lấp các mương thoát ở khu này.
Bảng 7:Biến động một số loại địa hình ở vùng
Cẩm Phả - Cửa Ông giai đoạn 1969-1993
(tính từ bản đồ hiện trạng môi trường các năm 1969 và 1993)
Đơn vị diện tích: ha |
Năm 1969 |
||||||
NĂM 1993 |
Bãi bồi |
Bãi thải |
Biển |
Địa hình nhân sinh |
Vùng bị tác động do khai thác
than |
Sa bồi |
San lấp xây dựng |
Bãi bồi |
5,3 |
|
47,2 |
0,3 |
|
2,9 |
|
Bãi thải |
43,7 |
66,2 |
89,7 |
58,1 |
22,0 |
12,0 |
|
Biển |
|
1,5 |
1,304,4 |
|
|
4,0 |
|
Địa hình nhân sinh |
48,6 |
6,7 |
34,1 |
684,3 |
1,3 |
15,5 |
5,6 |
Vùng bị tác động do |
|
28,4 |
|
36,9 |
348,9 |
|
|
Sa bồi |
|
|
75,4 |
|
|
2,7 |
|
San lấp xây dựng |
3,7 |
|
15,7 |
0,5 |
|
36,2 |
|
2.
Tác động của khai thác than tới đường bờ khu vực nghiên cứu
Đường bờ khi luận giải
ảnh máy bay được quan niệm là đường bờ nước tại mức triều cao.
Ở các vùng có thực vật ngập mặn không xác định được bằng khái niệm trên thì ranh
giới được quy ước là ranh giới của thảm thực vật ngập mặn và biển [3].
Đối
với ảnh LandSat năm 2001 khi chiết xuất tự động thì đường bờ là ranh giới đất và
nước ở thời điểm chụp.
Một
giới hạn khác của nghiên cứu này là đường bờ luận giải từ tư liệu viễn thám chưa
được định chuẩn với mức triều. Tuy vậy, đặc điểm địa hình đới bờ tại vùng nghiên cứu có độ
dốc lớn nên sai lệch do mức triều tới vị trí đường bờ ở các thời điểm sẽ không
chịu tác động lớn của thủy triều xét trên phương nằm ngang.
Năm 1969, khoảng cách
từ đất liền (nơi xa nhất theo hướng bắc-nam) tới Hòn Hai là 160 m. Tới năm 1993, đường
bờ đã vượt quá Hòn Hai về phía nam. Số liệu phân tích ảnh cho thấy tại khu Cẩm
Phả so với năm 1969, đường bờ năm 1993 đã lấn ra 700 m và 2001 đã lấn ra 1000 m.
Theo [Đặng Văn Bát, 1999; Ngô Phúc Hưng và nnk, 1990; Phạm Khả Tùy, 1995, Lưu
trữ Viện ĐCKS] đoạn đường bờ tại vùng thị trấn Cẩm Phả lấn ra biển trung bình
300-400 m trong giai đoạn 1969-1985. Tại vùng này quá trình bồi tụ do các dòng
bùn đá đã tạo ra lưỡi bồi tụ rộng lớn đang tiến dần về phía đảo Khỉ. Vật liệu
thải cũng gây bồi lấp các mương thoát nước cạnh mỏ Đèo Nai. Tại khu nhà máy tuyển than Cửa Ông, bãi thải đã lấp mất cửa sông và
hình thành một hồ nhân tạo. Các số liệu nghiên cứu của tác giả cho thấy
từ năm 1993 tới năm 2001 bãi thải đã lấn về phía tây-tây nam 450 m. Trong đợt
thực địa tháng 4/2003 với sự hỗ trợ của máy định vị (GPS), tác giả xác định điểm
xa nhất của bãi thải năm 2003 cách ranh giới năm 2001 một khoảng 60 m theo hướng
tây-tây nam, chiều rộng trung bình của bãi thải là 400 m.
Nghiên
cứu ảnh vệ tinh năm 2001 cho phép tác giả chỉ ra hướng vận chuyển vật liệu trầm tích
ven bờ. Sự vận chuyển vật liệu trầm tích này ở đoạn từ vụng Cửa Lớn tới Cửa
Ông có chiều hướng từ đông bắc xuống tây nam. Các dòng vật liệu này còn
chịu tác động của sóng nên dễ dàng tích tụ ở ven bờ, đặc biệt ở những nơi có các
địa hình chắn theo hướng vuông góc với bờ như đoạn Khe Cát, bến tàu Cẩm
Phả, thị trấn Cẩm Phả.
VI.
KẾT LUẬN
Từ
những kết quả nghiên cứu trên, có thể rút ra một số kết luận như sau.
Công tác khai đào và đổ
thải từ các hoạt động khai thác than lộ thiên là yếu tố chính gây biến động về vi
địa hình, làm thay đổi chế độ thủy văn cục bộ. Cụ thể cao trình khai thác mỏ Cọc
Sáu năm 1969 là 45 m, và dữ liệu địa hình năm 2000 cho thấy đã giảm xuống
-127,39 m. Tương tự, đối với mỏ Đèo Nai là 147 m năm 1969 và 12,79 m năm 2000.
Sự biến đổi đường bờ do
các hoạt động khai thác than diễn ra với cường độ lớn và làm thay đổi đáng kể
cảnh quan ven biển vùng nghiên cứu. Từ năm 1969 tới năm 1993 diện tích đổ thải ở
vùng Cẩm Phả - Cửa Ông lấn ra biển là 89,7 ha, trong đó, diện tích bãi thải nhà
sàng Cửa Ông (đổ ven bờ) đã tăng từ 10,3 ha năm 1969 lên 73,24 ha năm 2001.
Các
phương pháp được áp dụng cho vùng nghiên cứu có thể áp dụng cho các vùng khai
thác than khác. Đối với việc luận giải đường bờ, tại những vùng đới bờ có độ dốc
nhỏ, khi áp dụng phương pháp nhất thiết phải quy chiếu với mực nước triều.
Trong khâu tính ngưỡng cho chiết suất đường bờ từ ảnh LandSat, nên tính tới yếu
tố không đồng nhất của đặc điểm thực vật, phù sa, dòng
ven bờ của khu vực tính toán. Các yếu tố này có thể gây sai
lệch đường bờ được chiết suất với đường bờ thực.
VĂN LIỆU
1. Aronoff, S. 1989. GIS. A management perspective.
WDL Publication,
2. Phạm Văn Cự, 1996. Xây dựng bản đồ địa mạo một
vùng đồng bằng trên cơ sở phối hợp hệ xử lý ảnh số và hệ thông tin địa lý. Luận văn Tiến sĩ, Thư
viện Quốc gia, Hà Nội. 140 tr.
3. Winarso G., Budhiman S., 2001. The potential
application of Remote sensing data for coastal study. Proc.
22nd Asian Conference on Remote Sensing.