TÀI LIỆU MỚI VỀ ĐỊA TẦNG VÀ CỔ SINH CÁC
TRẦM TÍCH TRIAS HẠ Ở TÂY BẮC BỘ
ĐẶNG TRẦN HUYÊN, NGUYỄN ĐÌNH HỮU,
NGUYỄN HỮU HÙNG, ĐOÀN NHẬT TRƯỞNG, NGUYỄN LINH NGỌC
Viện
Nghiên cứu Địa chất và Khoáng sản, Thanh Xuân, Hà Nội
Tóm
tắt:
Dựa trên các kết quả khảo sát thực địa của
các tác giả bài báo này, hệ tầng Cò Nòi ở Tây Bắc Bộ đã được chia ra làm hai hệ
tầng: hệ tầng Hua Tất gồm các trầm tích lục nguyên vùng cửa sông và hệ tầng Pa
Khôm gồm các trầm tích chứa carbonat, với tuổi lần lượt là Indi và Olenek thuộc
Trias sớm. Hoá thạch
thu thập được trước đây và vừa qua đã được chia thành
các đới cổ sinh, chứng minh cho tuổi của các hệ tầng.
Quá trình nghiên cứu các trầm tích Trias hạ ở Tây Bắc Bộ cho thấy có
một số lượng khá lớn các phân vị địa tầng đã được xác lập trong khu vực qua các
thời kỳ khác nhau.
Hệ tầng Cò Nòi
được Đovjikov A. và Bùi Phú Mỹ [5] mô tả lần đầu theo
quốc lộ số 6, đoạn từ Yên Châu đi bản Cò Nòi.
Theo mô tả ban
đầu, hệ tầng gồm:
- Đá phiến chứa vôi phân lớp, màu xám đỏ xen đá vôi chứa sét màu xám
và xám vàng. Trong đá phiến bột màu vàng tìm thấy
Claraia? sp., Entolium
discites microtis Bittn., Eumorphotis venetiana
(Hauer), Eumorphotis spinicosta Witt.. Dày 50 - 70 m.
- Cát kết
arkos màu đỏ sẫm xen các lớp kẹp đá phiến sét và bột vụn bở. Dày 100 - 150 m.
- Đá vôi phân lớp mỏng và dạng thấu kính xen các lớp kẹp đá phiến
sét màu phớt đỏ.
Dày 30-50 m.
Tổng bề dày của hệ tầng khoảng 180-270 m.
Hệ tầng Cò Nòi
phân bố khá rộng rãi ở Tây Bắc Bộ, tạo thành những dải hẹp kéo dài không liên
tục theo hướng TB - ĐN, từ cao nguyên Lan Nhị Thăng, Tả Phìn, Sơn La, Mộc Châu
xuống vùng Hoà Bình, Vụ Bản, Ninh Bình (Rịa) và tây bắc Thanh Hoá (Thạch Thành,
bến đò Kiểu).
Sau khi hệ
tầng Cò Nòi được xác lập, trải qua nhiều năm đo vẽ bản đồ ở các tỷ lệ khác nhau
cũng như kết quả của công tác nghiên cứu chuyên đề, hệ tầng dần được hoàn thiện
nhưng cũng để lại không ít những quan niệm khác nhau về hệ tầng.
Vào những năm
70 của thế kỷ trước, đồng thời với việc đo vẽ hàng loạt các tờ bản đồ tỷ lệ
1/200.000 ở Tây Bắc Bộ, nhiều tài liệu địa tầng và cổ sinh các trầm tích Trias
hạ đã được thu thập.
Trên các tờ bản đồ này, các trầm tích Trias hạ thường được gọi
dưới tên "thống Trias dưới" [1, 11, 13, 18] hoặc bậc "Indi", bậc "
1. Hệ tầng Hua
Tất (T1 ht)
- Hệ Jura không phân chia (part.): Jamoida
A.I., Phạm Văn Quang (trong Đovjikov và nnk, 1965; đới Ninh Bình).
- Hệ tầng Cò Nòi (part.): Đovjikov A. và
Bùi Phú Mỹ (trong Đovjikov A. và nnk, 1965; đới Sơn La) (T1-2); Vũ khúc và nnk,
1965; Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ và nnk, 1989; Vũ Khúc (trong Vũ Khúc và nnk), 2000.
- Điệp Chiềng Đông
(part.): Nguyễn Xuân Bao, 1970.
- Điệp Bái Đằng (part.):
Vũ Khúc, Trịnh Thọ, Lê Tựu, 1972.
- Điệp Tân Lạc (part.):
Phan Cự Tiến và nnk, 1977 (T1); Trần Xuyên, 1984 (T1o).
- Hệ tầng Tân Lạc (part.): Vũ Khúc (trong
Vũ Khúc và nnk), 2000.
Hệ tầng lấy
tên bản Hua Tất ở phía tây mặt cắt chuẩn 1 km, thuộc huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Mặt cắt chuẩn được khảo sát từ ngã ba Cò Nòi theo đường 37 về phía Tạ Khoa, cách
ngã ba Cò Nòi 2,5 km.
Trên diện tích
đới Sơn La, Đovjikov A. và Bùi Phú Mỹ [5] đã xếp các tập cát kết arkos màu đỏ
sẫm, xen các lớp kẹp đá phiến sét và bột kết với chiều dày từ 100 m đến 150 m ở
đới Sơn La vào hệ tầng Cò Nòi. Còn Jamoida A.I. và Phạm Văn Quang [5] đã xếp các
lớp cuội kết, cuội kết tuf, cát kết tuf đôi khi phân lớp xiên màu đỏ trong phạm
vi đới Ninh Bình vào các trầm tích Jura không phân chia. Một số tác giả sau này
cũng có cách sắp xếp tương tự: xếp các trầm tích lục nguyên vụn thô kể trên phân
bố ở các đới Sơn La và Thanh Hoá vào hệ tầng Cò Nòi (hay điệp Cò Nòi) tuổi Trias
sớm và phân bố ở đới Ninh Bình vào hệ tầng Tân Lạc (điệp Tân Lạc) tuổi Olenek.
Quá trình
nghiên cứu các mặt cắt Trias hạ trong phạm vi Tây Bắc Bộ với thành phần đặc
trưng gồm các trầm tích lục nguyên: các lớp cuội - sạn kết chứa các vật liệu núi
lửa, cát - bột kết tuf và các đá phiến sét - bột kết, đá phiến màu đỏ, dẫn đến
việc cần thiết tách chúng khỏi các mặt cắt của hệ tầng Cò Nòi (hoặc hệ tầng Tân
Lạc) thành một phân vị độc lập - hệ tầng Hua Tất (T1 ht).
Hệ tầng được
đặc trưng bởi các lớp đá vụn thô màu đỏ: cuội - sạn chứa các vật liệu núi lửa,
cát kết tuf và các lớp đá phiến sét - kết màu đỏ, trong đó các lớp hạt thô ở
phần dưới của mặt cắt thường thể hiện tính phân lớp xiên, đặc trưng cho môi
trường á lục địa. Trong các mặt cắt của hệ tầng không chứa các
hoá thạch biển, mà chỉ thấy các vết in lá, vụn thực vật và các dấu vết bảo tồn
xấu của Hai mảnh vỏ tướng nước ngọt (?).
Hệ tầng Hua
Tất phân bố khá rộng rãi ở Tây Bắc Bộ ở các vùng Nậm Muội, Cò Nòi, Yên Châu, Tân
Lạc, Vụ Bản.
Mặt
cắt chuẩn của hệ tầng Hua Tất: theo đặc điểm thạch học, có thể chia thành hai tập theo trật
tự từ dưới lên trên như sau:
Tập 1: gồm các lớp cát kết, chủ yếu là
cát kết hạt mịn, có xen hãn hữu bột kết hạt thô. Các lớp có
màu nâu đỏ, phân lớp trung bình - mỏng (
Tập 2: chủ yếu là các lớp bột kết, đá
phiến sét - bột kết màu đỏ xen ít dần các lớp cát kết hạt mịn
theo chiều đi lên của mặt cắt. Các lớp chủ yếu có độ
dày mỏng
Ranh giới dưới của tập 1 với hệ tầng Yên Duyệt là quan hệ kiến tạo.
Ranh giới trên của tập 2 với các trầm tích của hệ tầng Pa Khôm thể hiện bằng
quan hệ chuyển tiếp rất từ từ, từ các lớp đá phiến sét bột kết màu đỏ, đỏ vàng
sang các lớp sét vôi và vôi sét xen đá vôi của hệ tầng Pa Khôm.
Bề dày chung của mặt cắt khoảng 155 m.
Mặt
cắt đèo Quy Hậu: mặt cắt khảo sát theo vách đường ô tô ở ngay đèo Quy Hậu gần thị trấn Mường
Khến có thể chia thành 2 tập từ dưới lên trên như sau:
Tập 1: gồm chủ yếu cát - sạn kết, cát kết
chứa nhiều vật liệu núi lửa (cát kết tuf) có xen kẽ ít các lớp bột kết hoặc bột
- sét kết. Đôi khi các lớp cát kết có chứa cuội và sạn.
Các lớp phân lớp thường từ trung bình đến dày (30-40-50 cm), nhiều chỗ thể hiện
tính phân lớp xiên. Đá có màu đỏ đến đỏ nâu đặc trưng.
Bề dày của tập đạt xấp xỉ 200 m.
Các hòn cuội
phân bố trong các lớp cát - sạn kết có độ mài tròn tốt, kích thước từ 1-2 cm đến
10-12 cm. Thành phần cuội chủ yếu là phun trào bazơ, silic.
Các lớp cát kết chủ yếu là cát kết với thành phần hạt vụn chứa nhiều các mảnh đá
phun trào bazơ và felspath kali lốm đốm trắng. Các lớp bột kết thường
phân lớp dày trung bình trong đó có các lớp thể hiện tính phân lớp song song,
rất mỏng (khoảng 0,5-1,5
mm).
Tập 2: gồm chủ yếu bột kết, sét - bột kết
và cát kết hạt mịn xen kẽ nhau, đôi khi cũng có lớp cát kết ngậm cuội, bề dày
các lớp từ mỏng đến trung bình. Các lớp đá chủ yếu có màu đỏ,
nâu đỏ, đôi khi xen các lớp có màu tím nhạt hoặc vàng nâu.
Bề dày của tập đạt xấp xỉ 80 m.
Các lớp cát kết ở tập này cũng chứa nhiều vật liệu núi lửa (tuf),
còn các hòn cuội cũng có thành phần là phun trào bazơ, silic.
Ranh giới dưới của các trầm tích màu đỏ mô tả trên đây là ranh giới
bất chỉnh hợp trên bề mặt bào mòn (lồi lõm) của các đá bazan tuổi Permi muộn.
Quan hệ này có thể quan sát bên vách phải trên đường từ đèo Quy Hậu đi thị trấn
Mường Khến.
Về phía trên
hệ tầng Hua Tất nằm chỉnh hợp và chuyển tiếp từ từ sang phần chân của hệ tầng Pa
Khôm (vết lộ T.236). Đó là sự chuyển tiếp từ các lớp phiến sét bột phong hoá màu
vàng của hệ tầng Hua Tất sang các lớp sét vôi, vôi sét, bột kết chứa vôi của hệ
tầng Pa Khôm.
Như vậy, bề dày của hệ tầng Hua Tất ở mặt cắt vừa mô tả đạt xấp xỉ
280 m.
Mặt
cắt ngã ba Bản Giàng: được khảo sát ở ngay ngã ba bản Giàng (bắc huyện
lỵ Thuận Châu xấp xỉ 30 km). Có thể chia hệ tầng Hua Tất ở mặt cắt này thành 2
tập:
Tập 1: Cuội kết với mật độ các hòn cuội
khá dày đặc với xi măng là cát kết tuf và các mảnh đá phun trào. Kích thước các
hòn cuội thay đổi từ 1-2 cm đến 10-12 cm, song chủ yếu từ 3-5 cm; thành phần của
cuội chủ yếu là các đá phun trào bazơ. Các lớp cuội kết phân lớp khá dày và khi phong hoá có màu nâu đỏ.
Bề dày của tập đạt xấp xỉ từ 50 đến 60 m.
Tập 2: Gồm chủ yếu các lớp cát kết tuf
xen bột kết tuf, phân lớp mỏng, màu nâu đỏ. Bề dày đạt xấp xỉ
20 m.
Các lớp cuội kết ở tập 1 của mặt cắt vừa mô tả nằm bất chỉnh hợp
trực tiếp trên các phun trào bazan tuổi Permi muộn. Có thể coi đây là các lớp cuội kết cơ sở của hệ tầng Hua Tất.
Bề dày chung của mặt cắt khoảng 70-80 m.
Ngoài các mặt
cắt trên, hệ tầng Hua Tất còn được khảo sát theo mặt cắt Xóm Láng - Làng Quảng,
mặt cắt Mường Hưng - Mường Tham.
Nhìn chung, theo diện phân bố, hệ tầng Hua Tất ở vùng Thuận Châu
có bề dày nhỏ nhất (70-80 m). Tại mặt cắt Đường 37 (ngã ba Cò Nòi) hệ tầng có bề
dày 155 m; còn các mặt cắt ở vùng Hoà Bình (các mặt cắt đèo Quy Hậu, Xóm Láng -
Làng Quảng, Mường Hưng - Mường Tham) bề dày của hệ tầng lên đến 400-500 m.
Hệ tầng Hua
Tất, nhìn chung nằm bất chỉnh hợp trên hệ tầng Yên
Duyệt. Chỉ ở đôi nơi như mặt cắt bản Giàng và mặt cắt đèo Quy Hậu, hệ tầng Hua
Tất nằm bất chỉnh hợp trên các đá phun trào bazan tuổi Permi muộn.
Hệ tầng Hua
Tất phân biệt rõ với hệ tầng Yên Duyệt (P3 yd)
nằm dưới nó bởi hệ tầng sau gồm chủ yếu đá phiến sét - vôi, đá vôi, sét silic,
silic, đá phiến sét và bột kết, thường phân lớp mỏng và không có màu đỏ đặc
trưng trên toàn mặt cắt. Nó cũng phân biệt rõ với hệ tầng Pa Khôm nằm trên, bởi
hệ tầng nằm trên đặc trưng bởi các lớp đá phiến sét vôi, vôi sét và đá vôi chứa
các hoá thạch biển điển hình.
Về tuổi của hệ
tầng Hua Tất: theo trình tự địa tầng của các mặt cắt Permi thượng - Trias hạ và
nhất là dựa vào mối quan hệ địa tầng của các phân vị địa tầng, tất cả tác giả
nghiên cứu các mặt cắt ở các vùng thuộc Tây Bắc Bộ đều xếp "các trầm tích vụn
thô màu đỏ" mà thực chất là hệ tầng Hua Tất vào phần dưới của Trias hạ. Việc
nghiên cứu các mặt cắt do đề tài tiến hành cho thấy chúng nằm không chỉnh hợp
trên đá phun trào Permi thượng và chỉnh hợp dưới các lớp chứa hoá thạch
2. Hệ tầng Pa
Khôm (T1o pk)
- Hệ tầng Cò Nòi (part.): Đovjikov A., Bùi
Phú Mỹ (trong Đovjikov A. E. và nnk., 1965) (T1-2); Vũ Khúc (trong Vũ Khúc và nnk.), 1965
(T1-2); 2000 (T1).
- Grès à Hoernesia socialis: Deprat, 1914
(T1).
- Điệp Cò Nòi (part.): Vũ Khúc (1980,
1990); Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ và nnk, (1989); Trần Xuyên, 1985 .
- Điệp Làng Bài: Nguyễn
Trí Vát, 1964 (T2a).
- Điệp Chiềng Đông
(part.): Nguyễn Xuân Bao, 1970.
- Thống Trias dưới (part.): Bùi Phú Mỹ và
nnk,1978; Phan Cự Tiến và nnk, 1977; Trần Đăng Tuyết,
1977.
- Bậc Olenek (part.): Vũ Khúc, Trịnh Thọ
(trong Trần Văn Trị và nnk, 1977).
- Điệp Tân Lạc (part.):
Đinh Minh Mộng, 1978 (T1); Phan Cự Tiến, 1977 (T1).
- Điệp Bái Đằng (part.):
Vũ Khúc, Trịnh Thọ, Lê Tựu, 1972.
Hệ tầng đặt
tên theo núi Pa Khôm ở phía đông mặt cắt chuẩn của hệ
tầng. Mặt cắt chuẩn hệ tầng Pa Khôm là mặt cắt kế tiếp của mặt cắt chuẩn hệ tầng
Hua Tất, cũng theo đường 37, cách ngã ba Cò Nòi 2 km.
Mặt
cắt chuẩn của hệ tầng Pa Khôm: lộ khá tốt do đường 37 vừa được nâng cấp.
Thành phần của hệ tầng bắt đầu lộ ở đỉnh dốc gồm các lớp sét
vôi, vôi sét xen một vài lớp sét bột phong hoá màu xám nằm chỉnh hợp trên tập
sét bột kết màu nâu đỏ của hệ tầng Hua Tất nằm dưới. Dần lên phía trên có
xen các lớp đá vôi màu xám, dày 5-10 cm, có lớp dày đến 40 cm. Đá sét vôi, vôi
sét bị nén ép khá mạnh, có màu sáng, khi phong hoá có màu xám lục thể hiện tính
vi phân lớp tương đối rõ. Đá lộ hầu như liên tục và đơn nghiêng, cắm về phía tây
nam, với thành phần thạch học khá đồng nhất, gồm sét vôi, vôi sét, xen các lớp
đá vôi. Dần lên trên cột địa tầng lượng đá vôi tăng dần, có lớp dày đến hàng mét
nên rất khó phân chia thành các tập nhỏ. Ở một vài nơi, sản
phẩm phong hoá của đá nom như đá sét bột, nhưng thực ra đều là sét vôi, vôi sét,
bị phong hoá. Tại phần dưới - giữa của hệ tầng, trong sét vôi bị phong
hoá tìm được các di tích Hai mảnh vỏ gồm:
Entolium discites microtis Bittner, Claraia sp. nov., Posidonia sp. và Cúc đá bảo tồn xấu, có thể là Meekoceras
sp. hoặc là Flemingites ? sp., tuổi
Cũng tại mặt
cắt này, Phan Cự Tiến (1977) đã dẫn ra một danh sách hoá thạch trong đá phiến
vôi, gồm Eumorphotis reticulata Richth., E. inaequicostata Benecke, Posidonia sp. và trong một tảng lăn đá
phiến vôi ở phần trên còn gặp Tirolites cf. seminudus Mojs.
Chiều dày của hệ tầng Pa Khôm ở mặt cắt này khoảng 420 m.
Mặt
cắt Nà Sảng (còn gọi là mặt cắt Làng Sảng, vùng Tủa Chùa): mặt cắt được
khảo sát theo đường dân sinh từ bản Nà Sảng I đi bản Nà Sảng II. Trật
tự mặt cắt từ dưới lên như sau:
Tập 1: sét bột chứa vôi, cát bột chứa
vôi, bột kết vôi bị phong hoá, vỡ vụn mạnh, màu vàng đất, chuyển dần lên có xen
sét - vôi. Trong sét bột chứa vôi, sét vôi ở phần trên của tập tìm thấy các di
tích Entolium discites microtis Bittner, Costatoria costata Zenker, Posidonia
sp., Unionites sp. bảo tồn khá
tốt. Do đá bị phong hoá mạnh nên quan hệ dưới của tập với các đá phiến sét than,
sét - silic hệ tầng Yên Duyệt tại đầu TN bản Nà Sảng I không được rõ ràng, nhưng
có lẽ là quan hệ kiến tạo. Tập dày khoảng 125 m.
Tập 2: đá vôi vón cục màu xám, xám đen
chứa nhiều thân đốt Huệ biển, dày khoảng 50 m. Tiếp sau đó chuyển lên đá vôi màu
xám sẫm, phân lớp mỏng - trung bình của hệ tầng Đồng Giao (T2a
đg).
Mặt
cắt ngã ba Bản Giàng: Nằm với quan hệ không trực tiếp trên các lớp bột
kết, sét bột kết màu nâu đỏ thuộc hệ tầng Hua Tất, lộ dọc theo đường ô tô Bản
Giàng - Chiềng Pấc là tập đá sét vôi, vôi sét, đá vôi, có chỗ là đá vôi vón cục,
dày khoảng 130 m thuộc hệ tầng Pa Khôm chứa hoá thạch Entolium
discites microtis Bittner, Costatoria
costata (Zenker), Costatoria sp.,
Entolium sp.. Thành
phần thạch học của hệ tầng ở đây khá đồng nhất, chủ yếu là carbonat, chỉ ở giữa
các lớp đá vôi, vôi sét mới thấy các màng sét hoặc những lớp sét vôi mỏng.
Mặt
cắt đèo Quy Hậu: tại vùng Tân Lạc, có thể quan sát được ở phía nam đèo
Quy Hậu. Hệ tầng gồm các lớp sét vôi, bột kết chứa vôi, bột kết, cát kết chứa
những lớp, ổ hay thấu kính đá vôi sẫm màu nằm chỉnh hợp trên bột kết, cát bột
kết hệ tầng Hua Tất. Trong những lớp sét vôi màu xám, xám lục ở phần trên của
mặt cắt tìm thấy các di tích Hai mảnh vỏ:
Gervillia pannonica Bittner, Costatoria aff. costata Zenker, Eumorphotis telleri tuberculata Chen, Entolium discites microtis Bittner, Hoernesia socialis (Schlotheim), Bakevellia sp.. Ngay
trên các lớp chứa hoá thạch nói trên khoảng 7 m là các lớp đá vôi màu xám sẫm,
phân lớp mỏng - trung bình của hệ tầng Đồng Giao (T2a đg). Chiều dày của hệ tầng Pa Khôm ở mặt
cắt này khoảng 150 m.
Tại vùng Mường
Hưng, phía tây bắc đèo Quy Hậu khoảng hơn 10 km cũng gặp các trầm tích hệ tầng
Pa Khôm, tương tự như ở mặt cắt đèo Quy Hậu. Trong những lớp bột kết, sét vôi,
vôi sét của hệ tầng nằm sát với đá vôi Anisi [10, 11] đã tìm thấy các di tích Costatoria
costata Zenker, Entolium discites microtis Bittner, Gervillia cf. mytiloides, Lima
convexa Vukhuc. Những trầm tích chứa hoá thạch trên trước
đây được Nguyễn Văn Hoành xếp vào điệp Mường Hưng (T1 mh).
Các trầm tích Trias hạ ở Thanh Hoá cũng được nhiều tác giả nhắc đến
và được xếp vào các phân vị khác nhau [4, 5, 10, 11, 22, 23]. Khảo sát
các trầm tích Trias ở vùng này, chúng tôi thấy rằng trừ mặt cắt Chòm Móng - Bái
Đằng và khu vực phía nam Cầu Kiểu, còn các khu vực khác đá lộ không tốt, nhiều
nơi chỉ là những điểm lộ đơn lẻ giữa vùng bị phủ rộng lớn.
Mặt
cắt Chòm Móng - Bái Đằng: được tiến hành khảo sát theo
đường mòn từ thôn Chòm Móng đi núi Ông Vo (Bái Đằng). Quan hệ giữa hệ tầng Pa
Khôm với các trầm tích nằm dưới không quan sát được vì bị phủ. Phần mặt cắt lộ
có thể chia làm 3 tập từ dưới lên:
Tập 1: chủ yếu gồm sét bột chứa vôi và đá
phiến vôi sét xen sét vôi màu xám xanh, xám lục, vàng lục, phân lớp mỏng. Dày khoảng 160 m.
Tập 2: sét vôi, vôi sét xen sét bột kết
chứa vôi, phân lớp mỏng màu xám xanh, xám lục, xám vàng chứa lớp kẹp hay thấu
kính đá vôi màu xám, xám sáng ở phần thấp. Trong các lớp sét bột chứa vôi, sét
vôi tìm thấy nhiều di tích Claraia gồm Cl.
guizhouensis Chen., Cl. sp. nov. 2. Dày khoảng 180
m.
Tập 3: đá phiến sét vôi, vôi sét phân lớp
mỏng - rất mỏng, màu xám xanh, xám lục. Dày khoảng 100 m.
Chuyển tiếp lên trên là đá vôi màu xám, xám sẫm phân lớp mỏng và đá
vôi phân lớp dày nằm ngang của hệ tầng Đồng Giao (T2a đg).
Mặt
cắt đèo Sơn La: đoạn từ km 2 gần ngã ba đường rẽ xuống bản Nà Có đến tây
thị xã Sơn La 1,3 km, trước đây được Nguyễn Văn Tình và
Nguyễn Đình Hợp (1994) mô tả trong quá trình đo vẽ nhóm tờ Thuận Châu tỷ lệ 1/50.000.
Theo các tác giả này, ở đây trầm tích hệ tầng Yên Duyệt (P3 yd) chuyển tiếp lên hệ tầng Cò Nòi. Nhưng theo
quan sát của chúng tôi, quan hệ giữa hệ tầng Yên Duyệt và các trầm tích Trias hạ
là quan hệ kiến tạo. Các trầm tích Trias hạ ở mặt cắt này có thể chia thành 2
tập, từ dưới lên trên như sau:
Tập 1: gồm bột kết, sét bột kết màu nâu
xám, nâu vàng có cấu tạo vi phân lớp song song mờ, cắm dốc đứng theo phương 350o-170o,
trong các đá này tìm thấy di tích Claraia stachei Bittner, Cl. desquamata Chen, Claraia sp.. Chiều dày khoảng 70 m.
Tập 2: gồm đá phiến sét vôi xen đá phiến
sét, sét bột kết và thấu kính đá vôi, chứa hoá thạch Bivalvia gồm Unionites canalensis
(Catullo), Unionites sp., Gervillia sp.. Tập dày
khoảng 55 m.
Nhìn chung, các trầm tích Trias hạ ở mặt cắt Đèo Sơn La có khác
với các mặt cắt đã mô tả trên đây. Ở mặt cắt này, phần dưới
mặt cắt chủ yếu là các trầm tích lục nguyên chứa hoá thạch biển, còn phần trên
gồm các lớp carbonat xen lục nguyên.
Hiện tại, tập 1 của mặt cắt có thể xếp tạm vào hệ tầng Hua Tất; còn
tập 2 được xếp vào hệ tầng Pa Khôm.
Về thạch học,
hệ tầng Pa Khôm gồm các trầm tích chủ yếu là carbonat ở phần dưới, chuyển lên
trên, lượng carbonat tăng dần với bề dày thay đổi từ 130 đến 420 m.
Ở những nơi hệ
tầng nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Hua Tất, hệ tầng chứa hoá thạch Claraia sp. nov.
(đường 37) và Cúc đá Meekoceras sp., Koninckites (?) sp. cho tuổi Indi muộn ? -
Về quan hệ
dưới của hệ tầng Pa Khôm các mặt cắt khảo sát đã cho thấy là nằm chỉnh hợp trên
hệ tầng Hua Tất. Ranh giới trên của hệ tầng là ranh giới chuyển tiếp liên tục
lên hệ tầng Đồng Giao (T2a đg) được
quan sát thấy ở nhiều nơi (Tủa Chùa, Cò Nòi, đèo Quy Hậu, Chòm Móng - Bái Đằng).
3. Các đới cổ
sinh trong trầm tích Trias hạ ở Tây Bắc Bộ
a. Hai mảnh vỏ (Bivalvia)
- Đới phức hệ Claraia wangi:
đới phức hệ này phân bố trong các lớp đá phiến sét, sét bột kết trong phần thấp
nhất của mặt cắt Trias hạ ở Tây Bắc Bộ. Thành phần hoá thạch chủ yếu của phức hệ
gồm: Claraia wangi (Patte), Claraia griesbachi (Bittner), Claraia sp., ngoài ra còn gặp khá phong
phú hoá thạch Lingula sp.. Đới phức hệ Cl.
wangi ở Việt Nam cho đến nay mới chỉ biết chắc chắn phân bố trong phần chân
của Trias hạ ở Tây Bắc Bộ và chân hệ tầng Hồng Ngài ở Đông Bắc Bộ. Loài chỉ thị Claraia wangi (Patte) phân bố khá rộng rãi trong phần dưới Indi của
miền Tethys, phổ biến ở Nam Trung Quốc, Bắc Việt Nam và Nam Alpes; loài Cl.. griesbachi
(Bittner) được biết trong Indi hạ ở Nam Trung Quốc, Bắc Việt
- Đới phức hệ Claraia aurita - Cl.
stachei: đới phức hệ này được tìm thấy trong các lớp trầm tích lục nguyên
gồm cát - bột kết và đá phiến sét bột trong phần thấp của các trầm tích Trias hạ
ở mặt cắt đèo Sơn La (tập 1), thành phần của phức hệ gồm đông đảo các mảnh vỏ
của Claraia stachei Bittner, Claraia
desquamata Chen, Claraia aurita
(Hauer). Ngoài ra, theo Bùi Phú Mỹ và nnk [1], Phan Cự Tiến [11] các loài Claraia
của phức hệ này còn thấy cả trong mặt cắt Trias hạ ở vùng cao nguyên Tủa Chùa.
Đới phức hệ Cl. aurita - Cl. stachei ở Việt Nam phân
bố rộng rãi trong các trầm tích Trias hạ ở Đông Bắc Bộ (hệ tầng Lạng Sơn và hệ
tầng Hồng Ngài), ở Tây Bắc Bộ (phần dưới loạt Cò Nòi) và ở Đông Nam Bộ (hệ tầng
Sông Sài Gòn). Loài Claraia aurita
(Hauer) phân bố khá rộng rãi trong Indi ở Kashmir, Nam Trung Quốc, Việt Nam và
Ussuri (Nga); còn loài Cl.
stachei Bittner phân bố ở Nam Trung Quốc, Việt Nam, Greenland và Australia.
Đới phức hệ Claraia aurita - Cl. stachei ứng với đới Cúc đá Glyptophiceras
[24, 26] hay phần trên của đới Ophiceras,
có tuổi ứng với khoảng cuối Indi sớm. Ở Nam Trung Quốc, và Nam Alpes, đới Claraia aurita được xác định nằm trên đới Claraia wangi [6, 7, 14, 27].
- Đới phức hệ Claraia punjabiensis
- Unionites canalensis: đới phức hệ này được ghi nhận từ các lớp đá phiến
vôi - sét, sét vôi và đá vôi thuộc hệ tầng Pa Khôm, Trias hạ ở các mặt cắt cầu
Kiểu, Eo Lê, Phúc Do, Chòm Móng - Bái Đằng, Cò Nòi và đèo Sơn La. Thành phần của
phức hệ gồm Claraia punjabiensis
(Witt.), Claraia (Pteroclaraia) protinalata Guo, Claraia sp. nov, Unionites
canalensis (Catullo), Unionites
fassaensis (Wissmann), v.v.. Loài Cl.
punjabiensis (Witt.) phân bố trong các trầm tích Olenek, Trias hạ Salt
Range, ở Nam Trung Quốc, Tây Bắc Bộ Việt Nam; Loài Claraia (Pteroclaraia)
protinalata Guo phân bố trong các trầm tích Trias hạ ở Vân Nam Trung Quốc;
loài Unionites
canalensis (Catullo) cũng thường gặp trong các trầm tích Olenek, Trias hạ ở
Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam.
- Đới phức hệ Costatoria costata -
Entolium disciles microtis: đới phức hệ này phân bố chủ yếu trong phần cao
của hệ tầng Pa Khôm, ứng với các lớp chứa chúng là các lớp vôi sét xen đá vôi.
Loài chỉ thị Costatoria
costata (Zenker) phân bố rộng rãi trong các trầm tích Olenek, Trias hạ của
miền Tethys, phổ biến ở Nam Trung Quốc, Bắc Việt Nam, các vùng Alpes và Đức.
Loài Entolium disciles microtis phân
bố rộng rãi trong phần cao của bậc Olenek ở các mặt cắt các vùng Hồng Ngài, Hà
Giang, Lạng Sơn. Loài này còn phân bố khá rộng trong các vùng Alpes và Nam Trung
Quốc.
b. Dạng
Cúc đá (Ammonoidea)
So với Đông Bắc Bộ, các
hoá thạch Dạng Cúc đá ở Tây Bắc Bộ kém phong phú hơn nhiều.
Các hoá thạch tuổi Indi cho đến nay chưa được phát hiện.
Các dạng tìm thấy đều thuộc bậc
- Đới phức hệ Flemingites - Paranorites: gặp trong phần dưới - giữa của hệ tầng Pa
Khôm. Đó là các Dạng Cúc đá có vỏ nhẵn, kích thước 3-5 cm, mức độ bảo tồn
xấu, được chúng tôi phát hiện lần đầu trong các mặt cắt đường 37 (Cò Nòi - Sơn
La) và dốc Cao (Phúc Do, Thanh Hoá) gồm: Meekoceras sp.,
Koninckites sp. indet. và Flemingites (?)
sp. đi cùng với các hoá thạch Hai mảnh vỏ như: Claraia punjabiensis, Cl. (Pteroclaraia) protinalata, Claraia sp. nov., v.v.. Ở vùng Rịa (Ninh Bình) Đinh Minh Mộng [4] cũng phát hiện được một di
tích hiếm hoi được xác định là Sibirites vietnamicus Vukhuc.
Các giống Meekoceras,
Flemingites, Koninckites được phát hiện nhiều trong phần thấp của hệ tầng
Bắc Thuỷ.
Chúng tạo nên hệ lớp Paranorites - Flemingites ở Đông Bắc Bộ. Giống Sibirites trên thế
giới chỉ được phát hiện trong trầm tích
- Đới phức hệ Tirolites –
Columbites: do Vũ Khúc [24] và Vũ Khúc, Đặng Trần Huyên [26] xác lập, có
tuổi
Bài báo được
các tác giả hoàn thành trong quá trình thi công đề tài “Địa tầng các trầm tích
Permi thượng – Trias hạ (P3-T1), điều kiện thành tạo và
khoáng sản liên quan ở khu vực Bắc Bộ” của Bộ Tài nguyên và Môi trường và đề tài
nghiên cứu cơ bản, mã số 720504 của Chương trình nghiên cứu cơ bản.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các cơ quan quản lý các đề tài trên.
VĂN LIỆU
1. Bùi Phú Mỹ (chủ biên), 1978. Địa chất tờ Lào Cai và Kim Bình. Tổng cục Địa chất, Hà Nội.
2. Đặng Trần Huyên, 1998. Các tài liệu về
địa tầng và cổ sinh các trầm tích Trias hạ ở đới tướng - cấu trúc Sông Hiến.
Địa chất và Khoáng sản, 6. Hà Nội.
3. Đặng Trần Huyên, Nguyễn Kinh Quốc, 2000.
Các tài liệu về địa tầng và cổ sinh các trầm tích Trias hạ ở đới tướng - cấu
trúc An Châu. Địa chất và Khoáng sản, 7 : 9-24.
Hà Nội.
4. Đinh Minh Mộng (chủ biên), 1978.
Địa chất tờ Ninh Bình.
Tổng cục Địa chất. Hà Nội.
5. Đovjikov A. E. (chủ biên), 1965.
Địa chất miền Bắc Việt
6. Guo F., 1985. Fossil
bivalves of
7. Loriga C. B., Posenato R., 1996. The
Lower Triassic of the dolomites and cadora. Permian and Permian
- Triassic boundary in South Alpine segment of the Western Tethys. Soc.
Geol. Italiana. Roma.
8. Nguyễn Xuân Bao (chủ
biên), 1978. Địa chất tờ Vạn Yên.
Tổng cục Địa chất, Hà Nội.
9. Phan Cự Tiến, 1973. Trầm tích Triat sớm ở Thanh Hoá. Địa chất, 110 :
10-15. Hà Nội.
10. Phan Cự Tiến, 1974. Thử sắp xếp gộp
chung vào kiểu mặt cắt địa tầng Pecmi muộn - Triat sớm ở miền Tây Bắc Bộ. Địa
chất, 112 : 1-13. Hà Nội.
11. Phan Cự Tiến, 1977. Trầm tích Pecmi muộn - Triat sớm ở Tây Bắc Việt
12. Phan Cự Tiến, 1978. Địa tầng Pecmi trên - Triat dưới ở Việt
13. Phan Sơn (chủ biên), 1978.
Địa chất tờ Sơn La. Tổng cục Địa chất, Hà Nội.
14. Regional
Geology of Guangxi Zhuang autonomous Region. Bur. Geol. Min. Res. Auton. Reg.
Geol. Pub. House. Bejing.
15. Saurin E., 1956. Từ
điển địa tầng Đông Dương. Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội (bản dịch tiếng Việt,
1970).
16. Tống Duy Thanh, Vũ Khúc, Phan Cự Tiến, 1994.
Quy phạm địa tầng Việt
17. Trần Văn Trị (chủ biên), 1977.
Địa chất Việt
18. Trần Đăng Tuyết (chủ biên), 1978.
Địa chất tờ Điện Biên Phủ. Tổng cục Địa chất, Hà Nội.
19. Trần Xuyên, 1983. Tài liệu mới về các
trầm tích Pecmi muộn - Triat sớm vùng Hoà Bình - Tân Lục. Bản đồ ĐC, 58 : 5-9.
Hà Nội.
20. Vũ Khúc, 1964. Những
tài liệu mới về tầng Cò Nòi và tầng Đồng Giao tuổi Triat.
Phần Cổ sinh. Địa chất, 40
: 5-9. Hà Nội.
21. Vũ Khúc (chủ biên), 1965.
Hóa thạch chỉ đạo địa tầng Trias miền Bắc Việt
22. Vũ Khúc, Trịnh Thọ, 1975. Những tài liệu
cổ sinh và địa tầng Triat thu thập được trong 10 năm gần đây và ý nghĩa của chúng.
Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
23. Vũ Khúc, 1980. Địa
tầng Trias Việt
24. Vũ Khúc, 1984. Cúc đá
Triat Việt
25. Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ (chủ
biên), 1989. Địa chất Việt
26. Vũ Khúc, Đặng Trần Huyên, 1998. Triassic correlation of the Southeast Asian
Mainland. Palaeogeogr., Palaeoclim.,
Palaeonecol., 143. Elsevier.
27. Yin H., 1994. Reassessment
of the fossils of the Paleozoic - Mesozoic boundary. Palaeoworld 4,
28. Yin H. et al, 2001. The
global stratotype section and point of the Permian - Triassic boundary. Episodes, 24/ 2.