PHÁT HIỆN MỚI
VỀ TRÙNG TIA VÀ BÚT ĐÁ Ở SƠN LA,
TÂY BẮC BỘ
TRẦN VĂN TRỊ1,
NGUYỄN VĂN CAN2, NGUYỄN CẨM3,
NGUYỄN VĂN HOÀNH1, BÙI CÔNG HOÁ2
1Tổng hội Địa chất
Việt Nam, 2Liên đoàn Bản đồ
địa chất Miền Bắc
3Trung tâm Thông tin -
Lưu trữ địa chất
Tóm tắt: Dải đá phiến silic
sọc dải kéo dài theo hướng TB-ĐN dọc theo
đường từ Sơn La đi Sông Mă, đoạn
giữa Bản Có và Nà Viễn, không giống với các hệ
tầng hiện có ở khu
vực này nên được mô tả là phân vị mới:
“hệ tầng Bản Có”. Mặt cắt chuẩn của
hệ tầng gồm ba tập từ dưới lên: 1)
Đá phiến sét- vôi xen đá phiến sét-silic, đá
phiến sét -bột kết xám dày >180 m; 2) Đá phiến
silic phân lớp mỏng, màu xám, xám sẫm, cấu tạo sọc
dải, chứa Trùng tia: Albaillella paradoxa? Deflandre, Albaillella
sp. v.v… và các di tích tảo (?) h́nh cầu, dày ≈ 120 m; 3)
Đá phiến silic-vôi xám xen các lớp đá phiến sét
silic xám sẫm, dày >160 m. Di tích Trùng tia trên do GS. Wu Haoruo,
Viện Địa chất và Địa vật lư, Viện
Hàn lâm Trung Quốc xác định cho tuổi Carbon
sớm, có thể là Tournais.
Ngoài ra, ở vùng Kết Hay,
một số di tích Bút đá cũng đă được
thu tập bổ sung gồm Demirastrites triangulatus (Harkness),
Diplograptus cf. modestus (Lupworth). Sưu tập này càng khẳng định
tuổi cho hệ tầng Kết Hay.
Trong quá tŕnh biên tập xuất bản các tờ bản
đồ địa chất - khoáng sản tỷ lệ
1:200000 loạt Tây Bắc Bộ, chúng tôi đă tiến hành
một số đợt khảo sát thực địa vùng
Sơn La trong năm 2000 và 2004, đă phát hiện
được một số di tích Trùng tia (Radiolaria) và thu
thập bổ sung các di tích Bút đá (Graptolithina).
Tuyến khảo sát
được tiến hành dọc theo đường ô tô
105 từ Sơn La đi Mai Sơn, Chiềng Khương,
huyện Sông Mă và theo đường rẽ phía nam đèo
Cham Cọ (4 km) đi vào xă Phiêng Pằn thuộc huyện
Mai Sơn. Các dải đá kéo dài theo phương TB - ĐN
ngang qua đoạn đường ô tô 105 từ Nà Viền
đến xă Chiềng Kheo có một đầu mút nhỏ
được xếp vào hệ tầng Nậm Ṕa
thuộc Đevon hạ, tiếp theo về phía bắc
trước đây được coi là bazan thuộc
hệ tầng Cẩm Thuỷ tuổi Permi muộn và trên
nữa là trầm tích lục nguyên chứa than thuộc hệ
tầng Yên Duyệt tuổi Permi muộn [2, 4, 5, 7].
Trên thực tế, dải
đá trước đây được xếp vào “bazan”
của hệ tầng Cẩm Thuỷ nằm trên
đoạn đường giữa Nà Viền và Bản Có
nêu trên không phải là bazan, mà chủ yếu là đá
phiến silic. Trên đoạn đường gần
cột mốc cây số cách Sơn La 27 km (cách Nà Viền
khoảng 2,8 km về phía BTB) là vết lộ gần như
liên tục dọc vách TB của đường, kéo dài trên
140 m gồm đá phiến silic xen kẽ với đá
phiến sét silic, đá phiến sét - bột kết rắn
chắc phân lớp mỏng đến trung b́nh, màu xám, xám sẫm.
Mẫu số 106/2 là đá
phiến silic trên vách đường (theo GPS độ cao
mặt đường 211 m, toạ độ 21009’22”
vĩ độ bắc, 103059’11” kinh độ
đông)* có chứa Trùng tia Albaillella spp. (Ảnh 3).
Đi tiếp về phía Bản Có (Sơn La) gần 100
m, đoạn này không lộ đá gốc trên
đường, nhưng dưới cống ngầm
vẫn gặp các vết lộ nhỏ cũng là đá
phiến silic, có nơi dưới dạng đeluvi.
Tiếp đến là
đoạn đường cong theo hướng ĐB
cắt chéo tập đá phiến silic trên một
đoạn 70 m rồi cong dần theo hướng BĐB và
BTB trên 100 m gần song song với phương kéo dài của
tập đá phiến này lộ ra dọc vách
đường phía ĐN gần Bản Có.
Mẫu số 106/5 ở
độ cao mặt đường là 210 m (toạ độ
21o09’27,6” và 103o59’12,2”)* là đá phiến
silic rất mịn màu xám kiểu đá bùn silic (chert)
chứa Albaillella paradoxa? Deflandre, A. sp. Tại đây, c̣n gặp những lớp
đá bùn silic chứa tảo h́nh cầu đường
kính 2-3 mm chưa được xác định.
Những di tích Trùng tia này do
GS. Wu Haoruo, Viện Địa chất và Địa vật
lư, Viện Hàn lâm Trung Quốc xác định và kết
luận là: “Các loài thuộc giống Albaillella Deflandre phân bố rộng
răi trong địa tầng Carbon và Permi trên thế giới.
C̣n đối với loài A. paradoxa Deflandre là dạng quan
trọng trong địa tầng Carbon hạ, tuy nhiên
mẫu này bảo tồn không tốt lắm nên phải
để dấu ? đằng sau tên loài”.
Từ những tài liệu
trên có thể cho rằng trầm tích silic ở vùng Bản
Có, xă Chiềng Kheo không tương ứng với hệ
tầng Bản Diệt tuổi Permi sớm-giữa ở
hạ lưu sông Đà [6] hoặc với hệ tầng Si
Phay tuổi Permi sớm ở Lai Châu [4], đồng
thời cũng không loại trừ khả năng thuộc
Carbon hạ mà phần thấp của mặt cắt có
thể là đá vôi silic của Đevon thượng ?
Dải đá phiến silic ở nam Bản Có nêu trên phân
biệt dễ dàng với các phân vị địa tầng
xung quanh và về thạch học không giống với các
hệ tầng Bản Cải (D3-C1) [2, 5],
Bản Diệt (P1-2), Cẩm Thuỷ (P3)
[4], và Phiêng Pằn (D3) [1]. Cho nên, dải đá
phiến silic này được chúng tôi coi là một hệ
tầng mới lấy tên Bản Có thuộc xă Chiềng
Kheo, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La và mặt cắt
chuẩn có thể quan sát được theo tuyến
đường ô tô từ TB Nà Viền đến Bản
Có. Mặt cắt này có thể chia làm ba tập:
1) Đá phiến sét-vôi phân
lớp trung b́nh, xen đá phiến sét-silic, đá phiến
sét - bột kết, đá 2) Đá phiến silic phân lớp
mỏng màu xám sáng xen đá phiến bùn silic sọc dải
(banded chert) màu xám sẫm, vết vỡ mảnh chai, nơi
phong hoá nhiễm oxyt mangan màu nâu chứa Trùng tia nêu trên. Dày » 120 m, cắm về phía ĐB 50 < 45o.
3) Đá phiến silic-vôi,
đá phiến sét-silic màu xám xen những lớp mỏng
đá phiến silic xám sẫm, phân lớp trung b́nh (3-6 cm),
mặt phong hoá đôi nơi cũng nhiễm oxyt mangan. Dày
> 160 m.
Về quan hệ địa
tầng, mặt cắt đá phiến silic này nằm trên
đá vôi phân dải xen đá phiến silic thuộc hệ tầng
Phiêng Pằn (D3) và dưới đá vôi phân lớp
dày thuộc hệ tầng Bắc Sơn (C-P2), và có
lẽ tiếp xúc kiến tạo với bazan của hệ
tầng Cẩm Thuỷ (P3) hoặc trầm tích
lục nguyên hệ tầng Yên Duyệt (P3).
Tuổi của hệ tầng Bản Có theo Trùng tia nêu trên
tạm xếp vào Carbon sớm, có thể là Turnais (?).
Ngoài ra, ở vùng Phiêng
Pằn, lộ ra hệ tầng Kết Hay có Bút đá
tuổi Silur sớm đă được Lê Thanh Hựu [1]
xác lập. Tại đây chúng tôi đă thu thập bổ
sung các di tích Bút đá trong tập đá phiến sét-silic có
thế nằm 225 < 65o.
Hoá thạch được
TS. Lương Hồng Hược, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội xác định
là: Demirastrites triangulatus (Harknes),
Diplograptus cf. modestus (Lapworth) cũng khẳng định thêm
sự có mặt của trầm tích Lanđovery thuộc
Silur hạ ở đây. Dải trầm tích Silur hạ này
có thể c̣n kéo dài lên phía TB lộ ra thành những
đoạn không liên tục dọc các xă Chiềng Ban,
Chiềng Sinh v.v… (TN thị xă Sơn La) tiếp lên TN
Tuần Giáo, do các hệ đứt găy TB-ĐN cắt xén và
các nếp uốn đảo lộn nên khó phân tách ra
được.
Ảnh 1. Vết
lộ 106 vách phía đông đường ô tô Mai Sơn
đi Sông Mă phía NĐN bản Có » 800 m. Đá
phiến silic chứa Trùng tia, thế nằm đơn
nghiêng dốc về ĐB 50o
£ 45o nơi lấy
mẫu 106/5.
Ảnh 2: Đá phiến sét-silic, xen kẽ
với đá phiến sét đen phân lớp mỏng chứa
Bút đá ở vách đường vùng Kết Hay xă Phiêng
Pằn; kéo dài theo phương TB-ĐN, cắm dốc
về TN 225o<65o.
Ảnh 3. Hoá
thạch Trùng tia thu thập ở vùng Bản Có
và Bút đá thu thập ở vùng Kết Hay, Sơn La
Sự có mặt của các
tập đá phiến silic, đá phiến sét-silic kiểu
turbiđit chứa Bút đá tuổi Silur sớm và Trùng tia
thuộc Carbon sớm ở Sơn La thuộc cánh ĐB
của đới phức nếp lồi Sông Mă chứng
tỏ chúng được thành tạo trong môi trường
biển sâu hoặc sườn lục địa thuộc
PaleoTethys Sông Đà nối liền với các nhánh ở TN
Trung Quốc và Thái Lan trong giai đoạn này.
Những tài liệu nêu trên
mới chỉ là những phát hiện ban đầu,
cần được tiếp tục nghiên cứu các
mặt cắt chi tiết về trầm tích luận, cổ
sinh cũng như quan hệ địa tầng và sự
phân bố của chúng ở Tây Bắc Bộ.
Tập thể tác giả xin
cảm ơn GS. Wu Haoruo đă nhiệt t́nh xác định
các hoá thạch Trùng tia nêu trên.
VĂN LIỆU
1. Lê Thanh
Hựu, Vũ Như Lực, Nguyễn Anh Tuấn, 2004.
Một số kết quả bước đầu về công
tác đo vẽ địa chất ở dải tây nam nhóm
tờ Yên Châu. Trong “Địa
chất và Khoáng sản Việt Nam” - 45 năm Bản
đồ Địa chất: 12-19. Liên đoàn
BĐĐCMB, Hà Nội.
2.
Nguyễn Xuân Bao (Chủ biên),
1978. Bản đồ
địa chất tờ Vạn Yên, tỷ lệ 1:200.000,
kèm theo thuyết minh. Tổng
cục ĐC, Hà Nội.
3. Phạm Đ́nh
Trưởng (Chủ biên),
2001. Địa chất và
khoáng sản nhóm tờ Sơn La, tỷ lệ 1:50000. Lưu trữ Địa
chất, Trung tâm TTLTĐC, Hà Nội.
4. Phan
Cự Tiến, Trần Quốc Hải, Lê Đ́nh Hữu,
Phan Viết Kỷ, Bùi Phú Mỹ, Nguyễn Vĩnh, 1977.
Chú giải bản đồ địa chất Tây Bắc
Việt Nam loạt tờ Sông Đà tỷ lệ 1:200000. Trong “Những vấn đề
địa chất Tây Bắc Việt Nam”. Nxb KH&KT, Hà Nội.
5. Phan
Sơn (Chủ biên), 1978. Bản đồ địa chất
tờ Sơn La tỷ lệ 1:200000, kèm theo thuyết minh. Tổng cục ĐC, Hà Nội.
6. Tô
Văn Thụ (Chủ biên),
1997. Địa chất và
khoáng sản nhóm từ Phong Thổ tỷ lệ 1:50.000. Lưu trữ Địa
chất, Trung tâm TTTLĐC, Hà Nội.
7.
Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao (Đồng chủ biên), 1988. Bản đồ địa chất
Việt Nam, tỷ lệ 1:500.000. Tổng cục ĐC, Hà Nội.