· Sầm Nưa (Đới tướng -
cấu trúc, Structuro-facial Zone)
1. Jamoiđa A. (trong Đovjikov A. E.
và nnk.), 1965.
2. Bắc Trung Bộ (II.2); đới
trải dài từ vùng Điện Biên Phủ qua lãnh thổ
Lào rồi uốn cong bao lấy phía đông khối Phu Hoạt
và kéo đến lưu vực sông Cả
North Trung Bộ
(II.2); stretching from the Điện Biên Phủ area through Laos
territory, then curving to surround the Phu Hoạt Block in the east, and
reaching the Cả River Basin; x = 18030 - 210
N; y = 1030- 1060 E.
3. Là một võng chồng Trias (nếp
lõm Sầm Nưa - Fromaget, 1934). Các đá trầm tích lục
nguyên xen đá nguồn núi lửa Anisi (hệ tầng Đồng
Trầu) lộ trên nếp lồi ở phần ĐB đới
chuyển lên trên là đá phiến sét, bột kết, cát kết
Lađin (hệ tầng Quy Lăng) lộ ra ở nếp
lõm phần TN đới. Phủ bất chỉnh
hợp trên các đá vừa nêu là các trầm tích chứa than
(hệ tầng Đồng Đỏ), trầm tích màu đỏ
(hệ tầng Núi Xước) và phun trào axit (hệ tầng
Mường Hinh) tuổi Jura. Các đá
sau Lađin tạo thành các lớp phủ gần nằm
ngang, ít biến vị. Dọc theo
các đứt gãy xuyên cắt móng uốn nếp xuất hiện
các xâm nhập granit (Bù Rình, Sông Chu...), một số thể
gabro (vùng Ngọc Lạc). Ngoài ra còn gặp phun trào bazan KZ ở
các vùng Như Xuân and Phủ Quỳ
This is a Triassic
superimposed depression (Sầm Nưa Syncline - Fromaget, 1934). Anisian
terrigenous sediments interbedded with volcanogenic rocks (Đồng Trầu
Formation) are exposed in an anticline on the NE part of the zone. They grade
upward to Ladinian clay shale, siltstone and sandstone (Quy Lăng
Formation) exposed in a syncline on the SW part of the zone. Coal-bearing
sediments (Đồng Đỏ Formation), continental red beds (Núi
Xước Formation) and felsic effusives of Jurassic age (Mường
Hinh Formation) lie unconformably upon above said Middle Triassic formations.
Post-Ladinian sediments form an approximately horizontal cover, which is weakly
altered. Along the faults which penetrate the folded basement granite
intrusions (Bù Rình, Sông Chu, etc.) appear together with some gabbro bodies (Ngọc
Lạc area). Apart from this, there are Cenozoic basalts in Như Xuân
and Phủ Quỳ.
4. Sụt võng kiểu địa máng
kèm theo hoạt động núi lửa mạnh
đã xảy ra trong khoảng đầu Trias dọc theo các
đới đứt gãy rìa tái hoạt động trên một
móng uốn nếp Tiền Cambri và Paleozoi hạ-trung. Pha uốn nếp ở ranh giới giữa
Carni-Nori kết thúc sự phát triển oằn võng kiểu
địa máng của đới. Trong Lias phát
triển điều kiện lục địa (hình thành các
trũng chậu) ở rìa một vùng biển lớn hơn
xa về phía đông. Sự phát triển về sau của
đới liên quan đến sự tái hoạt động
nhiều lần của các đứt gãy rìa lớn tạo
nên các pha phun trào và hình thành các hố sụt
nhỏ dọc theo chúng
The subsidence of
geosynclinal type accompanied by strong volcanic activties took place at the
beginning of Triassic along the marginal fault zones, which reactivated on the
Precambrian and Lower-Middle Paleozoic folded basement. The folding phase at
the Carnian-Norian boundary closed the subsiding evolution of geosynclinal type
of the zone. During Liassic the continental conditions were developed in the
margin of a larger sea situated far in the east. The further development of the
zone was related to the repeated reactivities of great marginal faults, which
created effusive phases, and formed small depressions along them.
5. Trước
đây J. Fromaget (1937, 1941) đã nêu lên khái niệm “Nếp
lõm Sầm Nưa” trong bình đồ Neotrias. Các
đặc điểm chính của đới Sầm
Nưa được xác định và trình bày trong công trình
Điạ chất miền Bắc Việt
Formerly, J. Fromaget (1937, 1941)
suggested the concept on the Sầm Nưa Syncline in the Neotriassic
plan. The main characteristics of the Sầm Nưa Zone have been
determined and set forth in the work Geology of North Việt
6. Ngô Gia Thắng, Lê Duy Bách
7. 10/1999.
· Sê
Kông (Đới địa máng uốn nếp, Geosynclinal
Fold Zone)
1.
Nguyễn Xuân Bao và nnk,
1978..
2.
Inđosinia
(III), nằm ở phía TB địa khối Kon Tum, thuộc
địa phận tỉnh Quảng
Indosinia
(III); situated in the NW of the Kon Tum Geoblock, belonging to the territory
of Quảng Nam province (Việt Nam) and Salavan, Attapeu (Laos); x =
14030 - 15030 N; y = 1070 - 1070 20
E.
3.
Phức hệ địa
máng uốn nếp của đới là các loạt trầm
tích lục nguyên và silic bị biến vị mạnh
được hình thành vào nửa đầu Paleozoi. Cấu
trúc uốn nếp
của đới được định
hình vào cuối Đevon - đầu Carbon. Trên bình đồ
hiện tại đới bị phức tạp hoá bởi
hệ thống đứt gãy và các thành tạo địa
chất trẻ hơn, từ Paleozoi thượng đến
Kainozoi, phủ lên.
The geosynclinal fold
complex of the zone consists of strongly altered terrigenous sediments and
chert formed at the first half of Paleozoic. Its folding structure took shape at the
end of Devonian - beginning of Carboniferous. On the present structural plan,
this zone has been becoming complicated by fault systems and the cover, formed
by from Upper Paleozoic to Cenozoic sediments.
4.
Đới Sê Kông đã xuất
hiện đồng thời với đới A
Vương - Long Đại theo cơ chế
sinh rift nội mảng và sau đó là giãn đáy đại
dương ở rìa bắc của craton Inđosinia vào cuối
Proterozoi - đầu Paleozoi. Cố kết định hình của
đới xảy ra trong biến hoạ
The
Sê Kông Zone appeared at the same time with the A Vương - Long Đại
Zone according to the intraplate rifting mechanism, and then, oceanic floor
spreading in the northern margin of the Indosinian Craton at the end of
Proterozoic - beginning of Paleozoic. The consolidation of the zone took place
during the Caledonian diastrophism.
5.
Trước đây J.
Fromaget (1937, 1941) đã có nhắc đến kiểu cấu
trúc Sê Kông. Bản tính địa máng uốn nếp của
đới ngày càng được công nhận (Lê Duy Bách,
1985; Nguyễn Đình Uy, Trần Văn Trị, 1985; Trần
Văn Trị và nnk, 1986; .vv.). Ngoài ra còn tồn tại một
số khái niệm khác: Aulacogen (Trần Đức
Lương, Nguyễn Xuân Bao, 1985), Đới hút trườn
vỏ đại dương (Nguyễn Xuân Tùng, Trần
Văn Trị, 1992)
Formerly,
J. Fromaget (1937, 1941) had spoken about the Sê Kông structure type. The
geosynclinal fold nature of the zone has been more and more accepted (Lê Duy
Bách, 1985; Nguyễn Đình Uy & Trần Văn Trị,
1985; Trần Văn Trị et al, 1986; etc.). Apart from this, there
still are some other concepts, such as: Aulacogen (Trần Đức
Lương & Nguyễn Xuân Bao, 1985), Zone of oceanic crust
obduction (Nguyễn Xuân Tùng & Trần Văn Trị, 1992).
6.
Lê Duy Bách.
7. 10/1999.
· Sinh Vinh (Đới rìa thụ
động uốn nếp, Passive
Marginal Fold Zone)
1. Lê Duy Bách, Ngô Gia Thắng, 1996.
2. Tây Bắc Bộ (I.3); nằm ở vùng hạ
lưu sông Đà, phía đông nam của dãy núi Hoàng Liên
Sơn, thuộc các tỉnh Sơn La, Phú Thọ, Hoà Bình và Hà
Tây; x = 21o- 21o10’, y = 104o30’- 105o30’.
West Bắc Bộ (I.3); in the lower
course of Đà River, situated in the southeast of Hoàng Liên Sơn
mountain range. It occupies parts of Sơn La, Phú Thọ, Hoà Bình, and
Hà Tây Provinces.
3. Móng uốn nếp gồm các phức hệ
lục nguyên Cambri trung- Orđovic hạ và carbonat - lục
nguyên Orđovic thượng - Silur hạ. Phủ trên có các
trầm tích Đevon và Carbon- Permi bị uốn nếp không
đều. Hoạt động magma xâm nhập biểu hiện
yếu ớt. Hình hài cấu trúc của đới bị uốn
cong dạng vành khuyên bao quanh phía đông nam của đới
Phan Xi Pan.
The folded basement consists of Middle
Cambrian - Lower Ordovician terrigenous formations and Upper Ordovician - Lower
Silurian carbonate - terrigenous formations. Devonian and Carboniferous -
Permian irregulary folded sediments covered this besement - the ỉntusive
magmatism was weekly developed. The structural configuration of the zone is
bended into a semi-cirle embracing the southeastern part of Phan Xi Pan zone.
4. Đới khởi sinh vào đầu
Paleozoi do kiến sinh Caleđon bắt đầu bằng
tách giãn nội mảng Tiền Cambri và sụt võng kéo dài
đến Silur sớm. Trong nửa cuối Paleozoi (Đevon
- Permi sớm) đới phát triển như một rìa thụ
động phân dị. Từ Permi muộn đới bị
lôi cuốn vào hoạt động mạnh mẽ của kiến
sinh Mesozoi của đới đại dương Sông
Đà, được cố kết vào đầu Trias muộn
và hoạt động như một cấu trúc lục
địa từ cuối Trias.
The zone was initiated at the beginning of
Paleozoic thanks the Caledonian tectonism, commencing by intraplate extension
in Precambrian, and subsidence up to Early Silurian. In the last half of
Paleozoic (Devonian - Early Permian) the zone was developed as a differentiated
passive margin. Since Late Permian, this zone was involeed into strong
activities of the Mesozoic tectonism of the Sông Đà oceanic zone,
consolidated at the beginning of Late Triassic, and developed as a continental
structure at the end of Triassic.
5. Đới Sinh Vinh thường
được ghép chung vào cấu trúc Phan Xi Pan (Fromaget, 1941;
Đovjikov và nnk, 1965; Trần Đức Lương, 1970).
Trong mối quan hệ về bản chất kiến tạo
và đặc trưng địa động lực thì
đới Sinh Vinh phân biệt rõ ràng với đới Phan
Xi Pan kể từ Paleozoi.
The Sinh Vinh zone is used to be attached to
the Phan Xi Pan zone (Fromaget, 1941; Dovzhikov et al., 1965; Trần Đức
Lương, 1970...). In the relationship of tectonic nature and
geodynamic characteristics, the Sinh Vinh zone clearly differs from Phan Xi Pan
zone since Paleozoic time.
6. Lê Duy Bách, Ngô Gia Thắng.
7. 8/1999.
· Sông Cả (Đới địa
máng uốn nếp, Geosynclinal
Fold Zone)
1. Lê Duy Bách, 1985.
2. Bắc Trung Bộ (II.2); nằm dọc
lưu vực Sông Cả thuộc tỉnh Nghệ An. Ngoài
ra, đới còn phát triển sang vùng Thượng Lào kế
cận; x = 18o50’-20o30’, y = 103o - 105o50’.
North Trung Bộ (II.2), along Cả
River, Nghệ An Province and extending to Laos.
3. Phức hệ uốn nếp của
đới bao gồm các thành tạo trầm tích lục
nguyên Cambri, Orđovic - Silur hạ và trầm tích lục
nguyên chứa carbonat Silur thượng - Đevon, bị phủ
bởi các trầm tích lục nguyên silic, carbonat màu đỏ
và phun trào trung tính - axit tuổi Permi và granitoiđ Permi muộn
- Trias sớm. Cấu trúc của đới bị phức
tạp hoá bởi kiến sinh Inđosini và Mesozoi muộn -
Kainozoi. Ranh giới phía nam của đới là tuyến
đứt gãy sâu Sông Cả.
The folded complex of this zone consists of
Cambrian, Ordovician- Lower Silurian terrigenous sediments and Upper Silurian -
Devonian calcareous sediments. They were covered by siliceous and calcareous
red sediments, acidic - intermendiate volcanics of Permian age and granitoids
of Late Permian - Early Triassic age. The structure of the zone was complicated
by Indosinian and Late Mesozoic - Cenozoic tectonism. The south border of the
zone is the Sông Cả fault zone
4. Đới nảy sinh trên móng kiểu lục
địa bị dập vỡ và thoái hoá ở rìa của
địa khối Tiền Cambri Phu Hoạt vào đầu
Paleozoi. Trong suốt Paleozoi sớm - giữa đới phát
triển như một rìa thụ động kiểu lục
nguyên. Vào Paleozoi muộn đã có sự phân dị và hình thành
một số bồn carbonat. Biến hoạ Hercyn đã cố
kết hoá cấu trúc của
đới vào cuối Permi. Trong Mesozoi và Kainozoi đới
phát triển theo chế độ nội mảng.
This zone was initiated on the Precambrian
degradated and broken down Phu Hoạt block’s margin of the continental crust at the beginning of Paleozoic. During
the Early - Middle Paleozoic the zone are developed as a pasive continental
margin. In late Paleozoic it was differentiated to some carbonate bassins and
at the end of Permian it was consolidated by Hercynian diatrophism. In Mesozoic
and Cenozoic the zone was developed in the intraplate regime.
5. Trong văn liệu địa chất
tên Sông Cả thường được dùng để chỉ
các cấu trúc khác nhau như Đới đứt gãy
(Đovjikov và nnk, 1965; Gatinski và nnk, 1970); Địa hào trẻ (Rezanov và nnk, 1967); Miền võng
(Kitovani, 1964); Đới phức võng (Trần Văn Trị
và nnk, 1979). Những khái niệm gần gũi là: Đới
thành hệ - kiến trúc (Trần Đức
Lương, Nguyễn Xuân Bao,
1985), Tuyến tái cải tiền rift (Nguyễn Xuân Tùng và
nnk, 1992), Đới uốn nếp Hercyn sớm (Trần
Văn Trị, 1994).
In the geological literature, the name Sông
Cả has been used to indicate different structuzes, such as “Fault zone” (Dovzhikov et al., 1965; Gatinski et al., 1970); “Young graben” (Rezanov et al., 1967), “Depression” (Kitovani, 1964); “Synclinorium zone” (Trần
Văn Trị et al., 1979). The nearer notions are: “Structuro- Formational zone” (Trần Đức Lương,
Nguyễn Xuân Bao, 1985), Prerift line (Nguyễn Xuân Tùng et al.,
1992); “Early Hercynian folded zone”
(Trần Văn Trị, 1994)
6. Lê Duy Bách.
7. 8/1999.
· Sông Chảy - Bắc Hà
(Ophiolit xáo trộn, Melange
Ophiolite)
1.
Lê Duy Bách, 1985.
2. Đông Bắc
Bộ (I.1); nằm bao quanh phía tây và nam của khối Tiền
Cambri Sông Chảy, thuộc các tỉnh Lào Cai, Hà Giang; x = 21o40’- 22o40’,
y = 104o10’- 104o50’.
East Bắc Bộ (I.1); embracing the
Precambrian Sông Chảy Block in the west and south, occupying the
territory of Lào Cai and Hà Giang Provinces.
3. Các tổ phần
chính là: các đá siêu mafic bị serpentinit hoá (phức hệ
Nậm Bút), gabro và gabrođiabas bị lục hoá (phức hệ
Bạch Sa), và các metavolcanit có thành phần mafic tổ hợp
với trầm tích lục nguyên carbonat Cambri trung. Các tổ
phần vừa nêu phân bố rải rác trong một đới
xáo trộn hẹp trên bình đồ kiến trúc của
đới Lô - Gâm, ở nơi tiếp giáp với khối
Tiền Cambri Sông Chảy.
The main
constituents consist of serpentinized hyperbasites (Nậm Bút Complex),
metamorphosed gabbro and gabbrodiabase
(Bạch Sa Complex) and the metavolcanics associated with Middle Cambrian
terrigeno-carbonate sediments. These components are scatteredly in a narrow
melange zone of the Lô - Gâm structural zone along the contact with the Sông Chảy
Precambrian block.
4. Ophiolit Sông Chảy - Bắc
Hà hình thành trong các kiến trúc đại dương mới
tạo do kiến sinh huỷ hoại và sinh rift phân tách trên vỏ
lục địa Riphei muộn của khối nền Việt-Trung
từ cuối Proterozoi, tiền thân của đới Lô -
Gâm. Biến hoạ Caleđon bắt đầu từ
Đevon đã khép kín kiến trúc đại dương
Lô-Gâm, trồi chờm các tổ phần ophiolit Sông Chảy
- Bắc Hà trong đới va chạm và xáo trộn phức
tạp. Kiến sinh Hercyn và Inđosini đã làm phức tạp thêm cấu
trúc nội bộ của đới xáo trộn này.
The Sông Chảy
- Bắc Hà Ophiolite was probably formed in the newly created oceanic
structures by the destruction and rifting of the Sino - Vietnamese Late Riphean
platform at the end of Proterozoic becoming the oldest structures of Lô - Gâm
Zone. The Caledonian diastrophism since Devonian had closed the Lô-Gâm oceanic
structure and pushed the portions of Sông Chảy - Bắc Hà ophiolite
by obduction mechanism to a collision melange zone. The following Hercynian and
Indosinian tectonisms made more complicated the inner structures of this
melange zone.
5. Về sự tồn tại
thành tạo kiểu ophiolit ở vùng Đông Bắc Bộ
đã được đề cập trong một số
công trình khác nhau (Trần Văn Trị và nnk, 1977, 1986; Nguyễn
Xuân Tùng, 1982; Gatinski và nnk, 1991; Bùi Minh Tâm và nnk, 1997).
The existence of
the ophiolite type formation in East Bắc Bộ region has been touched
upon in some works such as Trần Văn Trị et al., 1977, 1986;
Nguyễn Xuân Tùng, 1982; Gatinski et al. 1991; Bùi Minh Tâm et al., 1997.
6. Lê Duy Bách .
7.8/1999.
· Sông Đà (Rift, Rift)
1. Gatinski Yu. et al, 1977.
2. Tây Bắc Bộ (I.3); chiếm
toàn bộ diện tích khu vực này và tỉnh Thanh Hoá thuộc
Bắc Trung Bộ (II.2); x = 20° -
23°28’, y = 103° - 106°30’.
West Bắc Bộ
(I.3); occupying the whole territory of this region and the Thanh Hoá Province of North Trung Bộ (II.2).
3. Các thành tạo Proterozoi -
Paleozoi thượng lộ ra dọc rìa TN dãy Hoàng Liên Sơn
và ĐB bờ trái sông Mã. Tiếp trên là trầm tích carbonat -
bazan olivin kiềm (C3-P1), bazan - anđesit -
picrit, bazan - ryolit, picrit - điabas, bazan komatit cao magnesi (P2),
bazan - trachyt và trầm tích lục nguyên (T1), đá
carbonat và lục nguyên hạt mịn (T2-3), có bề
dày đạt tới 3.500 - 5.000 m. Các đá kể trên bị
uốn nếp mạnh, đôi nơi còn gặp đunit,
pyroxenit, periđotit, điabas, và đôi nơi còn có các thể
nhỏ granit. Phủ không chỉnh hợp trên chúng có các trầm
tích biển nông lục nguyên chứa than (T3 n-r), trầm
tich lục địa màu đỏ (J-K), tuf aglomerat trachyt,
syenit, minet, coccit, lamproit (Paleogen). Các hệ đứt gãy
rìa, trục rift và uốn nếp có phương TB-ĐN, nhiều
nơi có hiện tượng chờm nghịch và đảo
ngược phức tạp.
Proterozoic - Upper
Paleozoic formations are exposed along the Hoàng Liên Sơn Range and in the
NE of Mã River left side. Overlying them there are carbonate sediments and
alkaline olivine basalts (C3-P1),
basalt-andesite-picrite, basalt-rhyolite, picrite diabase and magnesium-high
komatiite basalt (P2), basalt-trachyte and terrigenous sediments (T1),
carbonate and fine terrigenous sediments (T2-3) having a total
thickness up to 3,500 - 5,000 m. The above-cited rocks were strongly folded;
locally there are dunite, pyroxenite, peridotite, diabase, and sometimes, small
bodies of granite. They unconformably underlie coal-bearing sediments (T3
n-r), red continental beds (J-K), and trachytic tuffaceous agglomerate,
syenite, minette, coccite and lamproite (Paleogene). The marginal fault
systems, rift axis and folds are of NW-SE trend; in many places complicated
overthrust and reverse have been observed.
4. Móng của rift không đồng
nhất lộ ra ở hai bên rìa, đặc biệt là cửa
sổ Tạ Khoa (PZ2-3) đã cố kết từ
Đevon và ổn định trong Paleozoi thượng với
các trầm tích đá vôi khá đồng nhất (C-P). Vào Permi
xuất hiện quá trình vát mỏng vỏ với các hệ
đứt gãy TB-ĐN, tạo điều kiện hình thành
dung nham bazan tholeit kiềm cao titan thuộc tiền rift, sau
đó tiếp tục phát triển rầm rộ bazan olivin
kiềm, bazan komatit, picrit điabas, bazan-trachyt với trầm
tích biển Trias rất dày, đặc trưng cho giai đoạn
rift thực thụ với sự tách giãn và trượt dịch.
Quá trình ghép nối va chạm lục địa - lục
địa tạo ra các thành hệ tạo núi chứa than và
lục địa màu đỏ.
The heterogeneous
basement of the rift is exposed in the two margins, especially in the Tạ
Khoa Window (PZ2-3). It was consolidated since Devonian, and
stabilized during Upper Paleozoic with fairly homogeneous limestone (C-P). In
Permian the thinning process of the crust began together with the appearance of
the NW-SE fault system, creating good conditions for forming pre-rift
titanium-high alkaline tholeiitic basalt, which was followed by the animated
development of alkaline olivine basalt, komatiite basalt, picrite diabase,
basalt-trachyte together with rather thick Triassic marine sediments,
characterizing the true rift stage with extension and slippage. The process of continent-continent
assembly and collision created orogenic coal-bearing formation and continental
red beds.
5. Cấu trúc này đã từng
được mô tả là Lớp phủ địa di Sông
Đà (Deprat, 1914; Dussault, 1921; Fromaget, 1941), Đới thành hệ
- cấu trúc Sông Đà (Đovjikov và nnk, 1965; Trần Đức
Lương, 1970; vv.). Mặt khác nó còn được xếp
vào Trũng hồi sinh magma - kiến
tạo (Nguyễn Xuân Tùng, 1972), hoặc Điva (Staritski,
1973). Hiện nay nhiều tác giả luận giải là Rift
giữa lục địa như mô tả ở trên.
The studied structure
has been described as Đà (Black) River Charriage Cover (Deprat, 1914;
Dussault, 1921; Fromaget, 1941), Sông Đà Structuro-formational Zone
(Dovzhikov et al, 1965; Trần Đức Lương, 1970; etc.).
It has been also assigned to Tectono-magmatic Reactivated Depression (Nguyễn
Xuân Tùng, 1972), or Diwa (Staritski, 1973). Recently, many authors has been
interpreting it as Intracontinental Rift as above-described.
6. Trần Văn Trị.
7. 9/1999.
· Sông Gâm
(Aulacogen, Aulacogen)
1.
Trần Đức
Lương, Nguyễn Xuân Bao, 1985.
2.
Đông Bắc
Bộ (I.1), nằm trải dài theo phương á kinh tuyến
từ vùng biên giới Việt-Trung đến vùng núi Tam
Đảo, thuộc địa phận các tỉnh Hà Giang,
Tuyên Quang, Bắc Cạn và Thái
Nguyên
East
Bắc Bộ (I.1); stretching in the submeridional from the Việt
Nam - China border area to the Tam Đảo Mt area, belonging to the
territory of Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Cạn and Thái Nguyên
provinces; x = 21030 -
240 N; y = 105010 - 105045 E.
3.
Mặt cắt của cấu
trúc chủ yếu bao gồm các thành tạo trầm tích và
trầm tích - phun trào có thành phần chủ yếu felsic và
kiềm, phân bố trong những dải hẹp gần
đứt gãy Sông Gâm và Phú Ngữ. Chúng có tuổi Paleozoi sớm
(chủ yếu là Orđovic - hệ tầng Phú Ngữ) bị
uốn nếp dạng tuyến và bị xuyên cắt bởi
các phức hệ magma xâm nhập trẻ
The
section of the structure is composed mainly of sedimentary and
volcano-sedimentary formations with mainly felsic and alkaline compositions,
distributed in narrow strips that are distributed near the Sông Gâm and Phú Ngữ
Faults. They are of Early Paleozoic age (mainly Ordovician - Phú Ngữ
Formation), linearly folded and penetrated by young magmatic intrusions.
4.
Aulacogen Sông Gâm được
hình dung là phát triển trên nền cổ Việt-Trung đồng
thời với hệ địa máng Cathaysia và gắn với
sự phát triển của các hệ đứt gãy nội nền
hay rìa nền. Lịch sử phát triển của aulacogen này
chỉ diễn ra vào cuối Paleozoi sớm
The Sông Gâm Aulacogen
seems to be developed on the old Sino-Vietnamese Platform at the same time with
the Cathaysian Geosynclinal System, and related to the development of
intraplatformal or marginal fault systems. The development history of this
aulacogen happened only at the end of Early Paleozoic.
5.
Tên gọi Sông Gâm còn
được dùng với các khái niệm khác nhau như: Phức
nếp lõm (Trần Văn Trị và nnk, 1985; Hutchison, 1989;...), hay là Đới uốn nếp
The
name Sông Gâm has been still used with other concepts, such as: Synclinorium
(Trần Văn Trị et al, 1985; Hutchison, 1989; etc.), or
Caledonian Fold Zone (Trần Văn Trị, 1994). On the basis of
collected data and present knowledge one can consider this structure as the
relict of a mobile structure of oceanic type (non-volcanic island arc - Lê Duy
Bách & Ngô Gia Thắng, 1996) regenerated by the rifting mechanism.
6.
Lê Duy Bách.
7.
10/1999.
· Sông Hiến (Đới
tướng - cấu trúc, Structuro-facial
Zone)
1. Đovjikov A. E. và nnk, 1965.
2. Đông Bắc Bộ (I.1); kéo dài từ
đông bắc Hà Giang, Bắc Cạn, tây Cao Bằng đến
đông Lạng Sơn; x = 21025’ 23025’, y = 104055’-
106045’ .
East Bắc Bộ (I.1); stretching
from NE Hà Giang, Bắc Cạn, W Cao Bằng, to E Lạng
Sơn.
3. Các đá lục nguyên - carbonat Paleozoi
thượng, các đá lục nguyên - nguồn núi lửa Trias hạ -
trung, trầm tích á lục địa chứa than Nori - Ret và
lục địa màu đỏ - phun trào Jura - Creta, trầm
tích lục địa Neogen. Magma xâm nhập gồm các
đá mafic - siêu mafic và granitoiđ tuổi Trias muộn và
granit sau Jura hạ, kiến trúc dạng tuyến; ở các nếp lồi lộ các đá
Paleozoi bị uốn nếp và các nếp lõm Trias trung -
thượng bị uốn nếp vò nhàu mạnh.
The zone is composed of Upper Paleozoic
terrigenous-carbonate sediments, Lower-Middle Triassic volcano-sedimentary
formation, Norian-Rhaetian coal-bearing formation and Jurassic-Cretaceous
continental red beds and volcanics, and Neogene lacustrine sediments. Magmatic
intrusions comprise mafic-ultramafic rocks, Late Triassic granitoids, and post-
Late Jurassic granite. The structure is of linear form; in anticlines are
exposed Paleozoic folded rocks, and in synclines Triassic sediments were
strongly folded and crumpled.
4. Vào nửa cuối Cambri giữa, khi đới
Sông Lô lân cận bắt đầu nâng thì đới Sông Hiến
bị lôi kéo vào sụt lún mạnh cho đến Silur sớm
(kiểu võng địa máng) tiếp tục pha sụt lún mạnh
nữa vào Đevon, kéo dài đến Carbon. Đới
được coi là động nhất ở Đông Bắc
Bộ. Chuyển động
phân dị bắt đầu
nảy sinh vào cuối Permi nhưng chỉ thực sự mạnh
mẽ vào cuối Carni, còn sụt võng mạnh ở đới
trong Trias sớm - giữa kèm theo phun trào là sự tăng
cường hoạt động của các đứt gãy
rìa. Hoạt động địa máng kéo dài (kiểu xuyên kỳ)
chấm dứt vào cuối Carni đầu Nori bởi các hoạt
động xâm nhập loạt Bản Xang - Phia Bioc, kèm theo
uốn nếp và nâng mạnh.
In the last half of Middle Cambrian, when the adjacent
Sông Lô Zone began to be uplifted, the Sông Hiến Zone was involved into
strong subsidence of geosynclinal depression type up to Early Silurian, then a new
strong subsidence phase happened in Devonian, and prolonged to Carboniferous.
This zone has been considered as the most mobile zone in East Bắc Bộ.
The differentiation movement took place at the end of Permian, but became
factually strong at the end of Carnian. As for the strong subsidence during
Early-Middle Triassic accompanied by effusions, it is the strengthening of
activity of marginal faults. The prolonged geosynclinal activities of
transperiodic type ended at the end of Carnian - beginning of Norian by
intrusive activity of the Bản Xang Complex, accompanied by strong folding
and uplìft.
6. Lê Duy Bách,
Ngô Gia Thắng.
7. 8/1999.
· Sông Hồng - Red River (Bể, Basin)
1. Lưu Hải Thống, Lê
Quân, 1985.
2. Sông Hồng (I.2); trải dọc
đồng bằng Bắc Bộ và vùng trung tâm vịnh Bắc
Bộ
Sông Hồng (I.2); spreading
along the Bắc Bộ Plain and the central part of the Bắc Bộ
Gulf.
5. Đồng nghĩa của
Trũng nguồn rift Hà Nội - Vịnh Bắc Bộ
Synonym of Hà Nội - Bắc
Bộ Gulf Riftoganous Depression.
6. Lê Duy Bách.
7. 9/1999.
· Sông Hồng -- Red River (Đới khâu, Suture Zone)
1. Pusharovskii Ju., 1965.
2. Sông Hồng (I.2); dọc
lưu vực sông Hồng
Sông Hồng (I.2); along the
basin of the Red River.
5. Đồng nghĩa của
Đới xiết trượt Ailaoshan - Sông Hồng
Synonym of Ailaoshan - Red River
Shear Zone.
6. Lê Duy Bách.
7. 9/1999.
· Sông Hồng -- Red River (Hệ đứt gãy
sâu, Deep-seated Fault System)
1. Fromaget J., 1927.
2. Sông Hồng (I.2); dọc
lưu vực sông Hồng
Song Hồng (I.2); along the
basin of the Red River.
5. Đồng nghĩa của
Đới xiết trượt Ailaoshan - Sông Hồng
Synonym of Ailaoshan - Red River
Shear Zone.
6. Lê Duy Bách.
7. 9/1999.
· Sông Lô (Đới tướng
- cấu trúc, Structuro-facial Zone)
1. Đovjikov A. E. và nnk, 1965.
2. Đông Bắc Bộ (I.1); nằm ở
lưu vực sông Lô, sông Gâm, phía đông đứt gãy Sông Chảy;
x = 21o10’ - 23015’,
y = 1040 - 105050’.
East Bắc Bộ (I.1; located in
the basin of Lô and Gâm Rivers.
3. Phát triển chủ yếu các thành tạo
trầm tích Proterozoi và Cambri hạ, ngoài ra còn có các đá vôi Đevon
trung uốn nếp thoải. Dọc một số đứt
gãy có các hố sụt tuổi Creta và các trũng Kainozoi kề
đứt gãy. Đá biến chất Tiền Cambri lộ ở
vòm nâng Sông Chảy cùng với xâm nhập granit phức hệ
Sông Chảy, plagiogranit dạng gnai phức hệ Ca Vịnh,
các xâm nhập Mesozoi phát triển ở các rìa đông và tây
nam (các phức hệ Điện Biên Phủ, Bản Xang và
Phan Xi Pan) .
In the zone are developed mainly Proterozoic and Lower
Cambrian sediments, besides there are gently folded Middle Devonian limestone. Along
some faults, there are Cretaceous troughs and Cenozoic depressions. Precambrian
metamorphic rocks are exposed in the Sông Chảy uplifted dome together
with granite of the Sông Chảy Complex, gneissoid plagiogranite of the Ca
Vịnh Complex, while Mesozoic intrusions are developed in the eastern and
southwestern margins (Điện Biên, Bản Xang and Phan Xi Pan
Complexes).
4. Là một đới nâng sớm và bền
vững nhất ở trung tâm miền chuẩn uốn nếp
Đông Việt Nam . Sụt lún kiểu biển nông xảy
ra trong thời gian ngắn (Cambri sớm) sau đó đới
lại nâng lên và chỉ bị biển phủ ở các rìa
vào Đevon giữa. Chính uốn nếp Neoproterozoi đã
định hình cho các cấu trúc hình thành về sau ở
đây. Đáng chú ý là ở phụ đới Khao Lộc
(phần cực đông bắc Sông Lô) phát triển một
đới chờm vảy khá
mạnh (phay nghịch chờm Sông Miên của Deprat, 1915) làm
cho các đá biến chất hệ tầng Na Hang chờm
lên trên đá vôi Permi thượng.
This is an early and the most stable uplift zone in the
centre of the East Việt Nam parafolded region. The subsidence of shallow-sea
type happened in a short time (Early Cambrian), after that the zone continued
to be uplifted, and the sea covered only its margins during Middle Devonian. In
fact, the Neoproterozoic folding had fixed the form of the younger structures
in this region. In the Khao Lộc Subzone, situated in the extreme NE of
the zone a rather strong scaly overthrust was developed (the Sông Miên
ovethrust fault of Deprat, 1915), causing the overthrust of metamorphic rocks
of the Nà Hang Formation upon Upper Permian limestone.
5. Với tên gọi Sông Lô còn có những
khái niệm cấu trúc kiến tạo khác nhau như: Vồng
nền (Nguyễn Đình Cát, 1972), Đới phức nếp
lồi dạng vòm (Gatinski và nnk, 1970; Trần Văn Trị
và nnk, 1989), Đới nâng (Hutchison, 1989), các đới động
uốn nếp vào Paleozoi (Trần Văn Trị, 1994; Lê Duy
Bách, Ngô Gia Thắng, 1997; v.v.).
The Sông Lô name has been used also under various
tectonic notions, such as: Platform Anticline (Nguyễn Đình Cát,
1972), Dome-like Anticlinorium (Gatinski et al. 1970; Trần Văn Trị
et al. 1989); Uplift Zone (Hutchison, 1989); Paleozoic Mobile Fold Zone (Trần
Văn Trị, 1994; Lê Dzuy Bách & Ngô Gia Thắng, 1997; etc.).
6. Lê Duy Bách, Ngô Gia Thắng.
7. 8/1999.
· Sông Mã (Đới khâu, Đới hút chìm cổ,
Suture Zone, Paleosubduction Zone)
1. Trần Văn Trị và nnk. 1975.
2. Tây Bắc Bộ (I.3); dọc lưu
vực sông Mã từ nam Lai Châu qua Thanh Hoá ra vịnh Bắc Bộ
West Bắc Bộ (I.3); along the
Mã River basin, stretching from south Lai Châu through Thanh Hoá to Bắc Bộ Gulf; x = 19030’ - 21030 ‘
N, y = 103010’ - 1060 E.
3. Các
thành tạo metabazan tholeit (tuổi biến chất 455 tr.n.),
đá phiến silic, đá phiến sericit, và đá vôi Cambri
trung (hệ tầng Sông Mã) bị uốn nếp, biến vị
mạnh tạo thành đới theo phương TB-ĐN dài
trên 360 km, có nhiều thể gabro-điabas, đunit-periđotit-serpentinit
Paleozoi sớm-giữa chứa chromit như thấy ở
Thanh Hoá. Phía ĐB đới là các đá trầm
tích biến chất, đôi nơi có xen đá lục
Neoproterozoi - Paleozoi hạ, còn ở phía TN là thành hệ flysh
Paleozoi trung. Động đất mạnh (MS max
= 6-7; h = 20-30 km) phân bố dọc đới này
This zone is composed of tholeiitic
metabasalt (metamorphic datation: 455 Ma.), strongly folded and altered Middle
Cambrian cherty shale, sericite schist and limestone, which form zones of NW-SE
direction stretching on 360 km, together with many bodies of Early-Middle
Paleozoic gabbro-diabase, chromite-bearing dunite-peridotite-serpentinite, as
it is seen at Thanh Hoá. In the NE part of the zone, there are Neoproterozoic -
Lower Paleozoic metamorphic sediments, locally interbedded with greenschist, as
for in the SW - Middle Paleozoic flyschoid formation and Middle Triassic
plutono-volcanic formations. Strong earthquake (MS max = 6-7; h =
20-30 km) is distributed in this zone.
4. Đới Benioff hút chìm cắm về
phía ĐB trong giai đoạn Neoproterozoi - Paleozoi giữa tạo
ra cung núi lửa Sông Mã. Hai miền (mảng) Đông Dương
và Việt-Trung khép nối với nhau tạo ra dới khâu
Sông Mã còn trồi lên hợp tạo ophiolit, olistostrom và xáo trộn
ngoại lai trong quá trình xô đụng, tạo núi và cố kết
vào Caleđon muộn và Hercyn
The subducted Benioff
Zone plunges northeastward during the Neoproterozoic - Middle Paleozoic period,
forming the Sông Mã volcanic island arc. The two
5. Đới khâu Sông Mã còn được
gọi là Vết sẹo Thanh Hoá (Jacob 1921), Đới
ophiolit (Hutchison 1975; Gatinsky 1977, 1989; Nguyễn Xuân Tùng 1982,
1986; Lê Duy Bách 1985; Văn Đức Chương 1995). Những
tài liệu gần đây chứng tỏ Đới khâu Sông
Mã còn cắm về phía mảng Đông Dương và xô đụng,
cố kết vào Inđosini (P2-T1)
The Sông Mã Suture Zone has been still
named as Thanh Hoá Cicatrix (Jacob 1921), Ophiolite Zone (Hutchison 1975;
Gatinsky 1977, 1984; Nguyễn Xuân Tùng 1982, 1986; Lê Dzuy Bách 1985; Văn
Đức Chương 1995). Recent materials have been proving that
the Sông Mã Suture Zone plunges toward the
6. Trần Văn Trị.
4.
10 / 1999.
· Sông Mã (Ophiolit ngoại lai, Allochthonous Ophiolite)
1. Lê Duy Bách và nnk, 1982.
2. Tây Bắc Bộ (I.3); nằm ở
lưu vực Sông Mã, từ Tuần Giáo (tỉnh Sơn La)
đến núi Nưa (tỉnh Thanh Hoá); x = 19o40’- 20o30’,
y = 103o20’- 105o40’.
Along Mã River Valley from Tuần Giáo
(Sơn La Province) to Núi Nưa (Thanh Hoá Province).
3. Mặt cắt gồm 5 tổ phần:
đunit – harzburgit bị serpentinit hoá, gabro tholeit và trầm
tích, phức hệ đai cơ điabas và plagiogranit, bazan
tholeit và trầm tích biển sâu. Hướng tiến hoá
thành phần vật chất của tổ hợp thuộc
loại hợp tạo ophiolit phân dị chưa đầy
đủ với đặc tính á kiềm và kiềm vào thời
kỳ đầu và tholeit vào thời kỳ sau. Trên bình
đồ kiến trúc hiện đại là một thể
ngoại lai dạng tuyến tính chờm phủ lên tiểu
lục địa Nậm Cô theo cơ chế trồi chờm.Kiến
trúc nguyên sinh của đới bị phức tạp hoá bởi
các kiến sinh muộn hơn.
Its section comporises 5 constituents:
serpentinized dunite-harzburgite, thioleiitic gabbros and sediments, diabasic
dyke and plagiogranite complexes, tholeiitic basalts, and deep sea sediments.
The evolution trend of the ophiolite assemblage belongs to the incompletely
differentiated ophiolite with subalkaline to alkline characteristics in the
early stage and tholeiitic characteristics in the late stage. In the recent
structural it is represented as allochthonous linear body thrusting into Nậm
Cô microcontinent by obduction mechanism. Its initial structure was complicated
by later tectonisms.
4. Ophiolit Sông Mã được hình thành trong
một cấu trúc đại dương mới tạo vào
cuối Neoproterozoi - đầu Paleozoi. Trong nửa đầu
Paleozoi cấu trúc này phát triển như một đới
đại dương (đới Sông Mã). Giai đoạn
hút chìm bắt đầu từ Orđovic muộn. Còn thời
kỳ sau va chạm (collision) bắt đầu từ
Đevon khi ophiolit bị cuốn chờm lên lục địa
Nậm Cô.
The Sông Mã ophiolite was formed in a new
created oceanic structure at the end of Neoproterozoic beginning of Paleozoic.
In the first half of Paleozoic this structure was developed as an oceanic basin
(Sông Mã zone), then the subduction began in late Ordovician, the collision in
Devonian, and the ophiolites obductes over Nậm Cô microcontinent.
5. Khái niệm về các di tích kiểu
ophiolit đã được nhận xét ở một số
công trình (Hutchison, 1975; Trần Văn Trị và nnk, 1977;
Dovjikov và nnk,1981). Kiến trúc ophiolit ngoại lai Sông Mã đã
được nghiên cứu chi tiết (Lê Duy Bách, 1984; Nguyễn
Xuân Tùng và nnk, 1992; vv) và được công nhận rộng
rãi.
The existence of the ophiolite relics is
noted by some worker (Hutchison, 1975; Trần Văn Trị et al.,
1977; Dovzhikov et al., 1981). The Sông Mã ophiolites have been studied in
detail by Lê Dzuy Bách, 1984; Nguyễn Xuân Tùng et al., 1992 and widly
accepted.
6. Lê Duy Bách.
7. 8/1999.
· Sông Mã (Đới tướng - cấu
trúc, Structuro-facial Zone)
1. Đovjikov A. E. và nnk, 1965.
2. Tây Bắc Bộ (I.3); trải dài từ
Phong Thổ (Lai Châu) và thượng nguồn sông Mã đến
phía tây Hồi Xuân (Thanh Hoá). x = 20010’ - 22035’,
y = 103055’- 105015’.
West Bắc Bộ (I.3); stretching from the Phong
Thổ area (Lai Châu Province), and the upper course of Mã River to W Hồi
Xuân (Thanh Hoá Province).
3. Ở phần trục của đới
lộ đá biến chất Tiền Cambri (phức hệ Nậm
Cô), phần rìa và vùng Tuần Giáo bị phủ bởi các trầm
tích Paleozoi, ít hơn và rải rác là các thành tạo trẻ
hơn. Phát triển khá nhiều các xâm nhập mafic, siêu mafic
(các phức hệ Núi Nưa, Núi Chúa) và granitoiđ (các phức
hệ Mường Lát, Điện Biên, Phia Bioc). Biến chất
động lực mạnh ở rìa đông bắc. Cấu
trúc lớp phủ không phụ thuộc cấu trúc móng.
In the axial part of the zone the Precambrian metamorphic
rocks are exposed (Nậm Cô Formation), but its margin and the Tuần
Giáo area were covered by Paleozoic sediments, and locally there are younger
formations. Mafic and ultramafic intrusions are rather widely developed (the
Núi Nưa and Núi Chúa Complexes) together with granitoids (Mường
Lát, Điện Biên and Phia Bioc Complexes). Strong dynamic metamorphism
occurs in the NE margin. The structure of the cover does depend on that of the
basement.
4. Trong Proterozoi sụt võng sâu ít phân dị,
vào đầu Neoproterozoi uốn nếp lớn thoải dạng
tuyến tính và nâng mạnh mẽ. Quá trình sụt võng địa
máng mạnh ở các đới lân cận vào Cambri muộn
- Orđovic - Silur, và sau đó vào Đevon lôi kéo đới
vào sụt lún (tương đối yếu và ít phân dị)
có lẽ kiểu thềm (hình thành lớp phủ kiểu cấu
trúc chồng). Về cơ bản sau Silur, đới Sông Mã
phát triển như một đới nâng bền vững,
phân cách các đới sụt võng kiểu địa máng ở
hai bên.
During Proterozoic the subsidence was deep, but
undifferentiated. At the beginning of Neoproterozoic the folding formed gentle
and great folds of linear form, and the strong uplift happened. The process of
strong geosynclinal subsidence in adjacent zones during Late Cambrian -
Ordovician - Silurian, and then, in Devonian had involved the zone into
relatively feeble and weakly differentiated subsidence, maybe, of shelf type,
forming the cover of superimposed type. After Silurian, the zone was developed
basically as a stable uplift zone, separating subsided zones of geosynclinal
type in its two sides.
5. Tên gọi Sông Mã còn được dùng
để chỉ các loại hình cấu trúc khác nhau như:
Phức nếp lồi (Gatinski và nnk, 1985), Vồng địa
luỹ (Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao,
1985), Đới địa
máng thực uốn nếp hay Đới động kiểu
đại dương mới tạo Paleozoi hạ uốn
nếp (Lê Duy Bách, 1985, 1996), Cung đảo (Nguyễn Xuân
Tùng, Trần Văn Trị và nnk, 1992; Findlay, 1997).
The name Sông Mã has been used also for showing different
structure types, such as: Anticlinorium (Gatinski et al. 1985), Horst Anticline
(Trần Đức Lương & Nguyễn Xuân Bao, 1985),
Eugeosynclinal Fold Zone, or Lower Paleozoic Folded Mobile Zone of newly
created ocean type (Lê Dzuy Bách, 1985, 1996), Island Arc (Nguyễn Xuân
Tùng & Trần Văn Trị et al. 1992; Findlay, 1997).
6. Lê Duy Bách, Ngô Gia Thắng.
7. 8/1999.
· Sông Mua (Võng paleorift, Paleorift Depression)
1. Gatinski Yu. và nnk, 1984.
2. Tây Bắc Bộ (I.3); nằm ở vùng bờ
phải lưu vực sông Hồng thuộc phía đông các tỉnh Yên Bái và Phú Thọ; x =
21020’ - 210 40’,
y = 104050’- 105015’.
West Bắc Bộ (I.3); located in
the right side of the Red River comprising the eastern part of Yên Bái and Phú
Thọ Provinces; x = 21o20’-21o40’, y = 104o50’-105o15’.
3. Cấu trúc của võng bao gồm chủ
yếu các thành tạo trầm tích kiểu đá phiến
sét đen và một số trầm tích lục nguyên - carbonat
Đevon. Ranh giới hiện tại với các cấu trúc
khác đều là đứt gãy. Móng uốn nếp cổ của
võng Sông Mua có thể là các thành tạo biến chất Tiền
Cambri của đới Phan Xi Pan.
The depression is mainly composed of
Devonian black clay shale with interbeds of calcareous terrigenous sediments.
The present boundaries with other structures consists of faults. The ancient basement of the depression may be
Pre-Cambrian metamorphic rocks of the Phan Xi Pan Zone.
4. Võng được hình thành vào Đevon
trong bối cảnh huỷ hoại và căng giãn cục bộ
ở rìa của tiểu lục địa Hoàng Liên Sơn.
Sụt lún chìm do căng giãn được bù trừ bởi
các trầm tích dày kiểu các thành hệ biển.
The depression was formed since Devonian in
the setting of destruction and partial extension in the margin of the Hoàng
Liên Sơn microcontinent. The subsidence caused by extension was
compensated by thick sedimentary sequences of marine formation type.
5. Cấu trúc Sông Mua thường được
ghép vào thành phần cấu trúc lớp phủ Paleozoi của
đới Phan Xi Pan.
The Sông Mua depression has been used to be
considered as the Paleozoic cover of the Phan Xi Pan Zone.
6. Lê Duy Bách.
7. 8/1999.
· Sơn La (Đới tướng - cấu
trúc, Structuro-facial Zone)
1. Đovjikov A. E. và nnk, 1965.
2. Tây Bắc Bộ (I.3); trải dài từ
Bản Nậm Cúm (Bắc Phong Thổ) qua Sơn La, Mai Châu
ra biển ở nam Ninh Bình; x = 19055’ - 22035’, y = 103010’- 106005’.
West Bắc Bộ (I.3); stretching
from Nậm Cúm (N Phong Thổ) through Sơn La, Mai Châu to the
East Sea at south Ninh Bình.
3. Nằm ở trung tâm hệ uốn nếp
Tây Việt Nam với ranh giới là các đứt gãy rìa. Phổ
biến rộng rãi các trầm tích Paleozoi (chủ yếu
Paleozoi trung) và các trầm tích Mesozoi
(chủ yếu là Trias và các trầm tích lục địa
Jura và Creta rải rác trên diện hẹp). Magma xâm nhập ít
phát triển, chỉ có rải rác các thân nhỏ của phức
hệ Phia Bioc. Tuy cấu trúc có dạng tuyến tính chung
song bình đồ Paleozoi khác bình đồ các cấu trúc
Trias chiếm phần đông nam đới: chờm vảy
về phía tây của bình đồ Paleozoi và kiểu tuyến
tính bị khống chế bởi đứt gãy của cấu
trúc Trias và granit kiềm kèm phun trào Pu Sam Cap tuổi Paleogen. Cấu
trúc uốn nếp tuyến tính rõ.
The zone is situated in the centre of the
West Việt Nam folded system with faults as boundaries. Paleozoic (mainly
of Middle Paleozoic) and Mesozoic (mainly of Triassic with Jurassic and
Cretaceous red continental beds scattered in small areas) formations are
widespread in the zone. As for magmatic intrusions, there are only small bodies
of granite of the Phia Bioc Complex. Although the structure has linear form but
the plan of Paleozoic differs from that of Triassic, which occupies the SE part
of the zone and overthrusts upon the western part of the Paleozoic plan. The
linear configuration is controlled by faults of the Triassic structure and alkaline granite
accompanying Paleogene Pu Sam Cáp effusives. The structure of folding is
clearly linear.
4. Sụt võng của móng tương đối
sâu và có sự chuyển tiếp từ đới nâng Sông Mã
đến đới sụt Sông Đà. Sụt lún xảy
ra bắt đầu từ Cambri sớm, đến cuối
Silur, tuy nhiên sự chuyển sang phân dị cuối Silur
không ảnh hưởng nhiều đến đới
Sơn La. Sự nâng tương đối vào cuối
Đevon và phát triển kiểu thềm từ đó đến
đầu Permi thì bắt đầu sụt lún trở lại
(kiểu sụt lún bù trừ) và đạt cao trong Trias (thấp
hơn so với đới Sông Đà lân cận) do bị
lôi kéo vào sụt lún mạnh ở đới Sông Đà. Uốn
nếp và nghịch đảo thực sự xảy ra vào
trước Nori.
The subsidence of the basement is rather
deep, and there is a transition from the uplifted Sông Mã Zone to the subsided
Sông Đà Zone. The subsidence happened from Early Cambrian to the end of
Silurian, however the differentiation at the end of Silurian did not influence
to the Sơn La Zone, which was feebly uplifted in Early Devonian. After
this uplift the zone was developed in the shelf form from Devonian to the
beginning of Permian, then began to be subsided again in the compensating form,
and reaching the maximum in Triassic (lower than adjoining Sông Đà Zone)
caused by the strong subsidence of the Sông Đà Zone. The true folding and
reverse happened in pre-Norian.
5. Về bản tính kiến tạo của
đới được xem là địa máng ven (Lê Duy
Bách, 1985) hay Đới động kiểu rìa thụ động
Paleozoi hạ uốn nếp (Lê Duy Bách, Ngô Gia Thắng, 1996).
The tectonic nature of the zone has been
regarded as Miogeosyncline (Lê Duy Bách, 1985), or Folded Mobile Zone of Lower
Paleozoic passive margin type (Lê Duy Bách, Ngô Gia Thắng, 1996).
6. Lê Duy Bách, Ngô Gia Thắng
7. 8/1999.
· Srê Pôk (Đới cấu
trúc, Structural Zone)
1. Trần Văn Trị,
1994.
2. Trung Trung Bộ (III.1); các tỉnh
Đắc Lắc, Lâm Đồng và Bình Phước
Middle Trung Bộ (III.1);
Đắc Lắc, Lâm Đồng and Bình Phước Province.
5. Đồng nghĩa của
Đới phức võng Bản Đôn
Synonym of Bản Đôn
Synclinorium Zone.
6. Lê Duy Bách.
7. 9/1999.
· Srepok - Nam Du (Biển
rìa, Mrrginal Sea)
1. Nguyễn Xuân Tùng và Trần
Văn Trị, 1992
2. Tây Nam Bộ (IV); tỉnh
Kiên Giang
West Nam Bộ (IV); Kiên Giang
Province.
5. Đồng nghĩa với
Đới địa máng thực uốn nếp Kampot - Nam
Du
Synonym of Kampot - Nam Du
Eugeosynclinal Fold Zone.
6. Lê Duy Bách.
7. 9/1999.
· Sundaland (Miền lục địa ĐN Á của
mảng Âu-Á, SE Asia Landmass of Eurasian Plate)
1.
Hutchison C.S., 1973.
2.
Phần lục địa ĐN châu
Á bao gồm cả các đảo Sumatra, Java và
3.
Lục địa Sundaland có móng là
các thành tạo biến chất bị uốn nếp Tiền
Cambri lộ ra chủ yếu ở các khối Shan, Kon Tum, nền Paternoster...
Nằm xen giữa các khối này là các đới động
có các tuổi tạo lập và kết thúc khác nhau trong
Phanerozoi, còn ở rià các khối thì bị phủ bởi các
thành tạo kiểu nền. Các đới động bị
biến dạng mạnh và bao gồm các hệ tầng trầm
tích nước sâu nằm trên các vỏ kiểu đại
dương của Paleo- và Neo-Tethys cùng các nhánh của chúng,
cũng như các bồn trũng nội craton, bị ép mạnh
và thường cộng sinh chặt chẽ với các thành tạo
ophiolit và các đai xáo trộn đánh dấu các đới
khâu. Ở vùng rìa của chúng giáp các khối lục địa
thường gặp các thành tạo cung đảo (trầm
tích, phun trào, xâm nhập). Sundaland thể hiện như một
nhân lục địa bền vững ở vùng ĐN Á được
craton hoá trong thời kỳ Trias muộn với đặc
trưng nền rõ nét nhất là sự có mặt rộng lớn
của các batholit granit kiểu S với
các tụ khoáng đi kèm (đặc trưng của vật
liệu vỏ lục địa). Các khối lục địa
trong khu vực có quan hệ nguồn gốc khác nhau: các khối
thuộc họ Gonđwana như khối Myanmar, Sinoburmalaya và
Shan-Thai; thuộc họ Cathaysia có khối nền Dương
Tử, khối Inđosinia, vi lục địa Phu Hoạt
(nằm trong đai uốn nếp Trường Sơn), khối
móng Tây Borneo, khối Eastmal, khối Manabor; thuộc họ hỗn
hợp có khối Sumatra. Sundaland là một miền lục địa
được tạo lập từ sự ghép nối các
khối (hoặc/và địa khu) có nguồn gốc khác
nhau
The basement of Sundaland landmass consists of
Precambrian folded metamorphic rocks exposed mainly in the Shan and Kon Tum
Blocks and Paternoster platform. Lying between these blocks there are mobile
zones having different creating and closing ages in Phanerozoic; as for the
margin of these blocks, it was covered by platform-type formations. The mobile
zones were strongly transformed, and composed of deep-water sediments which lie
upon the crust of oceanic type of Paleo- and Neo-Tethys together with their
branches, as well as intracratonic basins. These structures were strongly
compressed, and often existed in close association with ophiolitic formations
and melange belts, marking the suture zones. In their margin adjoining with
continental blocks, there are island arc formations (sediments, effusives and
intrusions). Sundaland exists as a stable continental core in SE Asia, which
was cratonized in Late Triassic with the widespread presence of S-granite
batholiths with accompanied deposits as the clearest platformal characteristics.
Continental blocks in the region have different genetic relations; these of the
Gondwana genesis include Myanmar, Sinoburmalaya and Shan-Thai Blocks; of the
Cathaysia genesis - Yangtze, Indosinia, Phu Hoạt microcontinent (from Trường
Sơn Fold Belt), West Borneo, Eastmal and Manabor Blocks; and these of
mixed geneses -
4.
Sự tách ra của Cathaysia
(hay các hợp phần họ hàng của nó) khỏi Gonđwana
(do sinh rift) từ phần rìa của nó (phần Bắc
The separation of Cathaysi, or its
a family components from the margin of Gondwanaland (northern part of
5.
Khái niệm Sundaland là một cấu
trúc lớn kiểu craton được sử dụng rộng
rãi trong văn liệu (Hamilton, 1979; Katili, 1983; Hutchison, 1984,
1989; .v.v.)
The Sundaland concept as a large craton type structure
has been used largely in the geological literature (Hamilton, 1979; Katili,
1983; Hutchison, 1984, 1989; etc.).
6.
Ngô Gia Thắng, Lê Duy Bách
7.
10/1999.
· Sunđinsinia (Mesoplit, Mesoplit)
1.
Nguyễn Nghiêm Minh, 1977
2.
Sunđinsinia là cấu trúc ghép của
hai cấu trúc cấu thành cơ bản là Sundaland và địa
khối Inđosinia. Bao gồm lãnh thổ toàn bộ các nước
ĐN Á (ngoại trừ các đảo phía bắc Philippin)
và các biển ven, lấy hệ thống đứt gãy sâu
Sông Hồng làm ranh giới phía bắc
Sundinsinia
is a coupled structure from two main componential structures, namely Sundaland
and Indosinian Geoblock. It includes the territories of all SE Asian countries
(in except of islands in the north of
3.
Mesoplit Sunđinsinia bao gồm các đơn vị là:
Sunđinsinia trung tâm (với các thành tạo uốn nếp đa
sinh từ Arkei đến Mesozoi trong đó địa khối
Inđosinia là nhân), Đông Sunđinsinia (với các địa
máng uốn nếp Meso-Kainozoi bao gồm các biển ven Sulu,
Sulawesi, Banda và các vùng kế cận), Tây Sunđinsinia (bao gồm
các thành tạo uốn nếp đa sinh từ Neoproterozoi đến
Kainozoi) có ranh giới với Sunđinsinia trung tâm là hệ đứt
gãy sâu xuyên Á (tuyến ophiolit Uttaradit-Bentong-Raub). Trong cấu
trúc của Tây Sunđinsinia có các hệ Arakan-Java (các cấu
trúc địa máng uốn nếp Phanerozoi), Saluin-Malakka (các
công trình uốn nếp Riphei muộn và chủ yếu là
Mesozoi và Kainozoi) và
Sundinsinia
Mesoplit is composed of following units: Central Sundinsinia (with from Archean
to Mesozoic multigenetic fold formations, among them the Indosinian Geoblock is
the core), East Sundinsinia (with Meso-Cenozoic folded geosynclines, including
Sulu, Sulawesi and Banda marginal seas and adjacent areas), West Sundinsinia
(including from Neoproterozoic to Cenozoic multigenetic fold formations) having
the boundary with Central Sundinsinia as Trans-Asia deep-seated fault system
(Uttaradit-Bentong-Raub ophiolite line). In the structure of West Sundinsinia,
there are Arakan-Java System (Phanerozoic geosynclinal fold structures),
Saluin-Malakka System (Late Riphean and mainly Mesozoic and Cenozoic fold
structures) and Sumatra -
4.
Sự hình thành và phát triển kiến
tạo của Sunđinsinia tạo lập nên bối cảnh
chủ yếu của toàn bộ Inđopacific bắt đầu
từ Arkei cho đến hiện đại. Nó có dáng vẻ
của sự tăng trưởng vỏ lục địa
lâu dài bắt đầu từ sự hình thành các nguyên lục
địa (các vĩ khối như địa khối Inđosinia)
thông qua các quá trình uốn nếp địa máng đa kỳ
(Caleđon, Hercyn, Mesozoi, Kainozoi) và hiện đang diễn ra
đặc biệt sôi động ở các đới rìa
(các hệ thống cung đảo - biển ven hiện đại)
The
tectonic formation and development of Sundinsinia created the main setting of
the whole Indo-Pacific from Archean to present. It had the manner of the
prolonged increase of the continental crust, which began by the formation of protocontinents
(such megablocks as Indosinian Geoblock) through the multicycle geosynclinal
fold processes (Caledonian, Hercynian, Mesozoic and Cenozoic), and is taking
place with animation in marginal zones (present island arc - marginal sea
systems).
5.
Khái niệm này mang tính tổng hợp
những cấu trúc lục địa của ĐN Á kể
từ đới đứt gãy Sông Hồng trở vào nam. Về
đặc trưng cấu trúc thì Sunđinsinia rất gần
gũi với Sundaland
This
concept bears the synthetic characteristics of SE Asian continental structures
from the Red River Fault Zone southward. In the structural characteristics side
Sundinsinia is very close to Sundaland.
6.
Ngô Gia Thắng, Lê Duy Bách
7. 10/1999.