3.1.1. Paleozoi hạ
THỐNG ORĐOVIC THƯỢNG - THỐNG SILUR HẠ
Hệ tầng Long Đại
(O3-S1 lđ)
Hệ tầng Long Đại do A. M. Mareichev và Trần Đức Lương (trong Đovjikov và nnk., 1965) xác lập. Trong vùng nghiên cứu, các trầm tích thuộc phần thấp của hệ tầng Long Đại lộ ra ở phía đông, bao quanh khối granit - granođiorit Đồng Hới thuộc phức hệ Trờng Sơn.
Phần dưới của hệ tầng chủ yếu bao gồm gneis biotit-felspat-silimanit, đá phiến thạch anh - hai mica, cát kết dạng quarzit, cát kết thạch anh - hai mica, đá phiến thạch anh có cordierit (ảnh 3.1). Bề dày khoảng 900m.
Tuổi Ordovic muộn - Silur sớm của hệ tầng Long Đại đợc xác định dựa trên cơ sở các hoá thạch Bút đá (Graptolithina) phát hiện được trong mặt cắt theo suối Lệ Kỳ và mặt cắt Khe Giơi gồm: Demirastrites convolutus (Hisinger), Monograptus halli (Barrande), Pristiograptus sp., Oktavites spiralis (Geinitz) và hoá thạch Bọ ba thuỳ (Trilobita) ở tây nam Vít Thu Lu: Cyclopyge sp.
Trong vùng nghiên cứu, hệ tầng Long Đại có quan hệ kiến tạo với các hệ tầng trẻ hơn. Không quan sát được quan hệ của hệ tầng với các trầm tích cổ hơn.
Ảnh 3.1. Vết lộ PN-2 (X: 17032’21"B; Y: 106017’19"Đ)
Đường 20. Cát kết
dạng quarzit bị cà ép mạnh, hệ tầng Long
Đại.
(Ảnh Trần Nghi, 1999)