3. Các modul và chỉ số thạch hoá dùng cho đá
trầm tích
Để nghiên cứu các đá trầm
tích, người ta sử dụng hàng loạt các modul – tỉ lệ của các thành phần thạch
sinh khác nhau. Nhờ các modul có thể tiến hành phân loại các đá trầm tích chính
xác hơn, khôi phục đặc điểm thạch luận nguồn gốc của các nguồn vật liệu, tái
tạo đặc tính hoá-lí và địa động lực của bối cảnh tích tụ trầm tích. Phương pháp
nghiên cứu này áp dụng không chỉ đối với các đá trầm tích hạt vụn và sét, mà
còn cho các trầm tích tương đồng chưa được gắn kết và cả cho các đá trầm tích
bị biến chất (parametamorphic).
1. Modul thuỷ phân (HM): Al2O3+TiO2+Fe2O3+FeO)
/ SiO2
Modul thuỷ phân dành để làm
sáng tỏ một trong những khuynh hướng phong hoá hoá học: tách các sản phẩm thuỷ
hoá (kaolinit, các oxid nhôm, sắt, mangan) ra khỏi oxid silic. HM rất hiệu
nghiệm đối với các đá lục nguyên và silic, ngoại trừ các đá giàu FeO dưới dạng
carbonat và sulphat. Theo trị số HM các đá lục nguyên và silic được phân ra như
sau: a) < 0,10: silisit (đá silit, phtanit, jasma, lidit,...); b) 0,10 –
0,20: silisit chứa sét (đá phiến silic-sét), cát kết và bột kết thạch anh ít
khoáng; c) 0,20 – 0,30: silisit sét (đá phiến sét-silic), cát kết và bột kết
thạch anh đa khoáng; d) 0,30 – 0,50: đá sét, một số grauwack và e) > 0,50:
đá sét thuỷ hoá, chứa hoặc kaolinit, hoặc các oxid Al, Fe, Mn tự do.
2. Modul nhôm silic (AM): Al2O3/SiO2
AM cũng phản ánh khuynh hướng
phong hoá hoá học như HM và giữa chúng có mối tương quan với nhau. Sự phá vỡ
mối liên quan chỉ ra có vật chất lạ trong đá (ví dụ AM thấp khi HM cao chứng tỏ
xuất hiện vật chất nguồn núi lửa).
Theo trị số AM, các đá lục
nguyên và silic được chia ra: a) < 0,10: cát kết thạch anh và đá silic; b)
0,10 – 0,22: cát kết; c) 0,22 – 0,35: đá sét và d) > 0,35 các đá thuỷ hoá
liên quan tới vỏ phong hoá.
Dưới tên “modul silic”, tỉ
lệ này được dùng để phân loại bauxit. Tất cả các đá có modul cao hơn 0,85 được
xếp vào alit. Đá có modul bằng hoặc gần bằng 0,85 thuộc sialit.
3. Modul femic (FM): (FeO+ Fe2O3+MgO)
/ SiO2
Modul femic sử dụng khá hiệu
quả để phân loại grauwack, tuy nhiên chỉ có thể sử dụng cho các đá không chứa
dolomit. Trước kia modul này được tính theo số lượng phân tử và kí hiệu bằng
chữ F. Ngày nay tất cả đều tính theo phần trăm khối lượng. Theo giá trị FM các
đá lục nguyên và silic được phân loại như sau: a) 0,03 – 0,05: cát kết thạch
anh và đá thạch anh; b) 0,05 – 0,20: cát kết và c) 0,20: các đá thuỷ hoá liên
quan với vỏ phong hoá sắt và quặng sắt.
Cần chú ý khi phân định cát kết,
grauwack được kéo lên khoảng trên do chúng có lượng lớn các khoáng vật sẫm màu,
vì thế một số trường hợp ranh giới giữa các đá cát và sét thường lại không rõ
ràng.
4. Modul titan (TM): TiO2/Al2O3
Việc sử dụng modul titan dựa
trên hai khuynh hướng hành vi ngược nhau của titan và nhôm trong quá trình
phong hoá hoá học, lắng đọng trầm tích và thành đá. Khi phá huỷ ô mạng tinh thể
của alumosilicat, nhôm và titan bị thuỷ hoá và có thể di chuyển dưới dạng dung
dịch keo và huyền phù. Về mặt hoá học, hai nguyên tố kể trên tương đối giống
nhau, nên trong trường hợp này, chúng cùng giàu lên trong thành phần sét của
vỏ phong hoá. Mặt khác, các khoáng vật của titan, chủ yếu là rutil và ilmenit,
là những khoáng vật rất bền vững nên được tích tụ trong các phần thô của vỏ
phong hoá, trong khi đó nhôm bị mất dần trong quá trình phân huỷ hoá học các
khoáng vật silicat. Tuy nhiên cần nhớ hải miên và các sinh vật khác có khả năng
hấp thu titan và như vậy hàm lượng titan được nâng cao trong các đá silic
nguồn gốc sinh vật, như spongolit.
Đại lượng TM chịu ảnh hưởng
của hai yếu tố: hàm lượng titan trong vật liệu tham gia vào trầm tích và mức độ
phân chọn cơ học của vật liệu trầm tích. Do đó trị số cực đại TM đặc trưng cho
các đá trầm tích trưởng thành như cát kết thạch anh được phân chọn tốt, cực
tiểu – cho các đá argilit của các tầng flysh. Vì thế trị số cao của TM sẽ thấy
ở các trầm tích gần bờ, còn thấp nhất trong các trầm tích nước sâu. Theo trị số
TM, các đá cát và sét được phân loại tuỳ thuộc vào điều kiện tướng và khí hậu
(Bảng 3.2).
5. Modul
natri (NM):
Na2O/Al2O3
Modul natri phản ánh quá
trình phong hoá hoá học đá, khi đó plagioclas bị phá huỷ. Trong cát, NM thường
cao hơn trong sét. NM rất có hiệu quả dùng để phân biệt grauwack, nó có trị số
cao nhất. Theo trị số NM, các đá lục nguyên và silic được phân ra như sau:
a) < 0,01: đặc trưng cho trầm tích thuỷ hoá; b) 0,01– 0,05: các trầm tích
silic; c) 0,05 – 0,20: các trầm tích lục nguyên và d) > 0,20: đặc trưng chỉ
cho grauwack.
Bảng 3.2. Phân chia hoàn cảnh tướng các trầm tích
lục nguyên theo TM
Hoàn
cảnh tướng |
Điều
kiện khí hậu |
Đá
sét |
Cát
kết - bột kết |
Lục
địa và hồ |
Khô |
0,048 |
0,058 |
Ẩm |
0,051 |
0,070 |
|
Biển
gần bờ |
Khô |
0,052 |
0,052 |
Ẩm |
0,057 |
0,078 |
|
Biển
mở (pelagic) |
Khô |
0,053 |
0,060 |
Ẩm |
0,048 |
0,055 |
|
|
Khô |
0,028 |
0,057 |
Ẩm |
0,054 |
0,072 |
|
Trung
bình |
0,053 |
0,069 |
6. Modul kali (KM): K2O/Al2O3
Modul kali cho ta những
thông tin quan trọng về sự phân bố kali và nhôm trong các khoáng vật tạo đá. KM
< 0,10: trong đá chủ yếu chlorit (nếu tỉ lệ Na2O/K2O
nhỏ) hoặc plagioclas; KM = 0,10 – 0,30: hydromica + chlorit (± plagioclas), khi
tỉ lệ Na2O/K2O thấp thì trong đá chỉ có hydromica +
chlorit; KM = 0,30 – 0,90: hydromica + orthoclas; KM > 0,90 : orthoclas +
silicat không nhôm chứa kali (như stilpnomilan) hoặc khi Na2O/K2O
cao trong đá gồm chủ yếu orthoclas + plagioclas, chỉ đặc trưng cho arkoz.
7. Modul tổng kiềm (NM + KM): Na2O+K2O/Al2O3
Modul tổng kiềm còn được gọi
là “chỉ thị felspat” giúp ích rất nhiều khi chẩn đoán vật liệu núi lửa trong các
đá. Đối với các đá lục nguyên hạt vụn và sét, trị số modul tổng kiềm không quá
0,20 – 0,40, trị số này tương ứng với hàm lượng chuẩn của mica và felspat. Hàm
lượng felspat trong đá tăng sẽ dẫn đến modul tổng tăng. Modul cũng được tăng
trong trường hợp nếu kiềm tham gia vào thành phần các silicat nghèo nhôm:
amphibol kiềm, hydromica sắt,... Cả hai
khuynh hướng: tăng hàm lượng felspat trong đá và tăng độ chứa sắt của silicat
- đặc trưng cho vật liệu núi lửa thành phần bazơ. Theo modul này, các đá chia ra
thấp kiềm (nhỏ hơn 0,20), kiềm bình thường (0,20 - 0,40), nâng cao kiềm (0,40 -
0,70), cao kiềm (0,70 - 1,00) và siêu kiềm (lớn hơn 1,00).
8. Modul sắt (FeM): (FeO+Fe2O3+MnO)
/ (Al2O3+TiO2)
Modul sắt, thường được dùng
cùng với modul thuỷ hoá, đặc trưng cho các sản phẩm pelit thuỷ hoá. Các đá lục
nguyên và silic theo modul sắt được chia ra nghèo sắt (nhỏ hơn 0,20), sắt bình
thường (0,20 - 0,60), sắt nâng cao (0,60 - 1,00), cao sắt (1,00 - 3,00) và rất
cao sắt (lớn hơn 3,00). Sắt hoặc mangan ở trong đá dưới dạng sulphur hoặc
carbonat, có thể có ảnh hưởng lớn đến thông số này. Điều đó có nghĩa các trị
số cao của modul sắt không phải lúc nào cũng tương ứng độ chứa sắt nguyên sinh
của vật chất pelit, mà có thể liên quan với pyrit hóa biểu sinh hoặc liên quan
với tái phân bố sắt và mangan (thành tạo các kết hạch) trong carbonat khi thành
đá.
9. Modul plagioclas (PM): (Na2O+CaO) / K2O
Modul này được dùng cho các
đá ẩn tinh, ở đó khó xác định thành phần sét hay vôi chiếm chủ yếu. Đối với đá
sét, đặc trưng trị số modul plagioclas thấp, trong khi đó ở trầm tích carbonat
trị số này cao nhờ giàu CaO và thấp K2O.
10. Chỉ số trưởng thành của
Pettijon (1976): SiO2/Al2O3
Giá trị cao của chỉ số đặc
trưng cho cát kết giàu thạch anh, chứa lượng không lớn sét hoặc alumosilicat
hạt vụn. Trị số thấp chỉ ra cát kết chưa trưởng thành chứa sét và alumosilicat
hạt vụn. “Độ trưởng thành” của các đá trầm tích do tính bền vững tương đối
của các khoáng vật trong các điều kiện phong hoá quyết định. Nó được tăng lên
theo hướng của dãy:
OlivinđpyroxenđhorblendđarnorthitđalbitđfelspatKđ
hydromuscovitđthạch anh.
Kết quả cuối cùng của quá
trình này là biến đổi hoàn toàn vật liệu nguyên thuỷ và lắng đọng cát thạch anh
sạch tổ hợp với các đá sét và carbonat. Những thành viên cuối cùng của dãy “trưởng
thành” liên quan chuyển tiếp dần dần với các trầm tích có độ trưởng thành
không cao có chứa các mảnh vụn không chỉ của các khoáng vật mà còn của các đá
khác nhau – granitoid, phun trào và đá phiến biến chất với tỉ lệ khác nhau tuỳ
thuộc vào thành phần miền xói lở, địa hình, độ xa vận chuyển và cường độ phong
hoá.
11. Chỉ số phong hoá hoá học
(CIA):
100Al2O3/(Al2O3+ CaO+Na2O+K2O)
Chỉ số này là chỉ tiêu về
khí hậu của miền xói lở. Khác với các modul trước, chỉ số này được tính theo
số lượng phân tử của các oxid. Cường độ phong hoá hoá học tương quan trực
tiếp với cổ khí hậu. Trong hoàn cảnh ẩm ướt, tỉ lệ nhôm và kiềm trong sản phẩm
phong hoá được tăng lên là do có sự vận chuyển đến của các sản vật từ felspat
calci, natri và kali. Với hoàn cảnh khô và băng giá, các vật liệu hạt nhỏ mịn
ít bị biến đổi, đặc trưng chủ yếu các khóang vật sét với hàm lượng nhôm nhỏ và
số lượng đáng kể felspat chưa bị biến đổi hoặc bị biến đổi yếu được vận chuyển
đến miền tích tụ. Với tư cách là tiêu chuẩn để phân định các trầm tích được
hình thành trong hoàn cảnh khí hậu ấm và lạnh, giá trị của CIA bằng 70. Các đá
không bị phong hoá, trị số CIA khoảng 50, trong khi đó các loại bị phong hoá
mạnh có CIA gần 100.
12. Chỉ thị về tướng các đá
trầm tích
Chỉ số Fe/Mn là một trong những chỉ thị
về tướng của các đá trầm tích. Chỉ số này giảm khi tăng độ sâu và khi chuyển
từ tướng thềm lục địa sang tướng biển khơi. Sự khác nhau rõ rệt hơn khi phân
định grauwack rìa lục địa thụ động và grauwack cung đảo đại dương. Các trầm
tích hấp thụ Mn từ nước biển, đặc biệt mạnh mẽ ở điều kiện nước sâu, đã gây nên
khuynh hướng giảm tỉ lệ Fe/Mn.
Tính toán chỉ số Fe/Mn được
tiến hành theo khối lượng các nguyên tố trong đá, bằng cách lấy hàm lượng các
oxid nhân với các hệ số tương ứng (Bảng 3.3).
Bảng 3.3. Hệ số tính chuyển hàm lượng oxid (%) và
nguyên tố
Nguyên tố - oxid |
Hệ số |
Oxid – nguyên tố |
Hệ số |
Fe+2đ FeO |
1,28648 |
FeOđ Fe+2 |
0,77731 |
Fe+3đ Fe2O3 |
1,42972 |
Fe2O3đ Fe+3 |
0,69944 |
Mnđ MnO |
1,29128 |
MnOđ Mn |
0,77443 |
Niđ NiO |
1,27262 |
NiOđ Ni |
0,78578 |
Tiđ TiO2 |
1,66806 |
TiO2đ Ti |
0,59950 |
Zrđ ZrO2 |
1,35080 |
ZrO2đ Zr |
0,74030 |
Theo chỉ số Fe/Mn, các đá
trầm tích, trong đó kể cả đá carbonat, được phân ra như sau: nước sâu (Fe/Mn
< 40); nước nông (40-80); nước nông ven bờ, chủ yếu là lục nguyên (80-160).
Chỉ số Ti/Zr để đánh giá độ dài di chuyển của vật liệu lục nguyên. Khi di chuyển dài, chỉ số Ti/Zr của các đá thành phần hạt vụn sẽ giảm; đó là do khoáng vật zircon được bảo tồn tốt hơn so với các khoáng vật chứa titan. Chỉ số titan-zircon nâng cao đặc trưng cho sét biển khơi và đặc biệt carbonat; điều này có liên quan trực tiếp với vai trò chính của vật chất bazit bị phá huỷ khi thành tạo thành phần lục nguyên của các trầm tích đại dương. Thường thường các mảnh vụn khoáng vật xuất hiện khi xói lở bazit được vận chuyển đến bồn trầm tích cũng được biểu hiện ở sự biến thiên các tỉ lệ Sc/Zr và Ni/Zr. Trong hoàn cảnh đó thường phát hiện thấy các sản phẩm xói lở dưới nước của các bazit (như các hạt pyroxen, amphibol đơn tà) trong phần nặng của trầm tích.