2.2. Nghiên cứu đặc tính tiến hoá các đá
magma.
2.2.1. Đặc điểm các quá
trình địa hoá trên cơ sở luận giải các biểu đồ biến thiên.
Nhìn vào bảng các tài liệu địa hoá các đá magma của
vùng nghiên cứu, khó phát hiện giữa các nguyên tố có quan hệ với nhau thế nào.
Do đó dùng thủ thuật thể hiện trên các biểu đồ, thường dùng nhất là biểu đồ của
Harker A.. Đó là một biểu đồ kép, trong đó một nguyên tố hoặc một oxid được vẽ
so với thành phần khác. Hình 2.2 là đồ thị của Na2O + K2O
so với SiO2 được sử dụng để phân loại các đá núi lửa là một ví dụ
điển hình, SiO2 được chọn làm hoành độ như một chỉ số về phân dị.
Nhưng bất kì nguyên tố hoặc oxid nào khác có thể thể hiện dãy biến thiên rộng
trong tổ hợp đá magma cũng có thể được sử dụng, ví dụ MgO, chỉ số magnesi: 100MgO/(MgO+ FeO),
100MgO/(MgO+FeO+Fe2O3) hoặc Zr.
Nói chung, đối với các tổ hợp đá magma cùng nguồn
gốc, các cặp oxid có tương quan mạnh mẽ hoặc dương hoặc âm. Những tương quan
hoặc xu hướng (trend) như vậy có thể do hậu quả của nóng chảy từng phần, kết
tinh phân đoạn, hoà trộn magma hoặc hỗn nhiễm vỏ, hoặc riêng rẽ hoặc kết hợp
các quá trình đó. Các xu hướng liên kết chặt chẽ trên các biểu đồ Harker thường
được coi là đại diện cho các quá trình tiến hoá hoá học của magma.
Có lẽ thuộc
tính đơn giản và quan trọng nhất của các biểu đồ Harker là khả năng ứng dụng
quy tắc Lever cho sự cân bằng khối lượng (Cox và nnk, 1979). Vì vậy có thể tính
toán theo đồ thị, trong đó thành phần dung dịch thay đổi khi một khoáng vật bị
tách khỏi dung dịch hoặc một thành phần hỗn nhiễm được thêm vào nó.
Để đơn giản có thể lấy ví dụ khái quát (Hình 2.15)
thể hiện kết quả quá trình kết tinh phân đoạn một số khoáng vật khác nhau từ
magma mẹ. Trên Hình 2.15a phần chiết tách đơn khoáng (E) được kết tinh từ dung
thể Pm ban đầu, kéo theo dung thể lỏng tàn dư di chuyển theo đường thẳng
Pm–Dm (Pm và Dm thể hiện thành phần magma mẹ và magma phân dị). Khoảng cách từ
Pm tới Dm phụ thuộc vào số lượng dung thể ban đầu Pm. Phần khoáng vật E tách
ra, cần di chuyển để hình thành magma phân dị (Dm) có thể được tính toán đơn
giản theo quy tắc Lever:
ở đây PmDm và EDm là khoảng cách giữa các điểm.
Hình 2.15. Các đường kết tinh của dung thể với số
lượng pha cứng khác nhau (xem giải thích trong phần viết)
Trên Hình 2.15b, hai khoáng vật P và Q được kết tinh
đồng thời với tỉ lệ mà tổng thành phần tương ứng ở E. Trong trường hợp này đường
dung thể lỏng lại hướng từ E tới Dm. Tỉ lệ dung thể so với tổng lượng của pha
kết tinh ở giai đoạn bất kì được xác định bằng EPm/ DmPm, trong khi đó tỉ lệ
của hai pha kết tinh là PE/QE. Nếu cả ba khoáng vật P, Q, R (Hình 2.15c) được
tách ra, thành phần tổng của chất tách ra trong trường hợp này phải nằm trong
tam giác do 3 khoáng vật tạo nên và dung thể lỏng lại tiến triển dọc theo
Pm–Dm. Rõ ràng trend Pm–Dm trên Hình 2.15c cũng có thể sinh ra do sự phân đoạn
của tổ hợp hai khoáng vật P+Q và R+Q, bổ sung cho tổ hợp ba khoáng vật P+Q+R.
Trong trường hợp khái quát, một hệ gồm n khoáng vật
đang kết tinh kiểu phân đoạn, thì thành phần tổng của chất tách ra (E) nằm
trong đa giác của n khoáng vật tạo nên, đồng thời nằm trên đường PmDm kéo dài
theo hướng ngược lại (tức đường đứt nét trên các hình 2.15a-c). Trường hợp
này nếu chỉ có một biểu đồ biến thiên đơn lẻ thì không có giải pháp duy nhất
cho vấn đề kết tinh phân đoạn. Tuy nhiên, nếu chúng ta có n biểu đồ biến thiên
độc lập thì có khả năng định được các tỉ lệ khoáng vật trong chất tách ra.
Thực tế, để giải bài toán kết tinh phân đoạn đa pha
có n > 3 phải dùng máy tính với một số phần mềm để thay thế cho cách giải
trên biểu đồ.
Đường trend (xu thế) trên các biểu đồ biến thiên có
thể thể hiện xu hướng phân đoạn mạnh (Hình 2.16).
Nói chung, những chỗ uốn đổi hướng của trend được
xem như mở đầu kết tinh một khoáng vật mới (hoặc một nhóm khoáng vật mới).
Như vậy các trend trên biểu đồ biến thiên thường có
ý nghĩa địa chất và phản ánh quá trình tiến hoá của các dung thể magma. Phần
lớn các trend trên biểu đồ biến thiên còn phản ánh quá trình hoà trộn hai
magma, bổ sung hay lắng đọng pha cứng trong quá trình đồng hoá hoặc hoà trộn
với dung thể được tách ra khi đá nóng chảy từng phần.
Theo thành phần của ban tinh (phenocryst) có thể
phán đoán về các khoáng vật phân đoạn. Xác định thành phần ban tinh bằng
microzond, rồi đưa nó lên biểu đồ biến thiên cùng với thành phần của đá có thể
là một trong những cách để kiểm nghiệm quá trình kết tinh phân đoạn. Nếu đường
trend lệ thuộc vào thành phần ban tinh, thì có thể giả định thành phần hoá học
của đá do phân dị kết tinh quyết định. Nếu thành phần ban tinh không phù hợp
với trend và khi đó khó giải thích tài liệu đã có bằng mô hình phân dị kết
tinh, phải tìm đến mô hình có sự đồng hoá đồng thời với kết tinh phân dị.
Hình 2.16. Các biểu đồ biến
thiên kiểu Harker với MgO (%) là hoành độ của phức hệ núi lửa cùng nguồn liên
quan quá trình kết tinh phân đoạn của olivin và clinopyroxen (theo Marjorie
Wilson, 1989)
Quá trình này lần đầu tiên do N. Bowen xây dựng. Ông
đã giả thiết là nhiệt độ toả ra khi kết tinh hoàn toàn đủ để đồng hoá đá vây
quanh. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, quá trình đồng hoá làm thay đổi mạnh hàm
lượng của một số nguyên tố vết và tỉ số đồng vị, nhưng khó thấy được ở nguyên
tố chính. Ngoài ra, các trend trên biểu đồ biến thiên có thể phản ánh quá trình
nóng chảy từng phần của protolith và được quyết định bởi thành phần hoá học pha
cứng bị lôi kéo vào nóng chảy.
2.2.2. Luận giải các trend
phân bố các nguyên tố đất hiếm
Hàm lượng REE trong nguồn và sự cân bằng khoáng vật
–dung thể lỏng ảnh hưởng đến trend phân bố nguyên tố đất hiếm trong các đá
magma.
Các khoáng vật có tác động lên dáng vẻ của mô hình
REE về nóng chảy và kết tinh phân đoạn. Quy mô tác động này phụ thuộc vào nồng
độ tương đối của khoáng vật và hệ số phân bố D của nó đối với nguyên tố.
Felspat có D thấp đối với tất cả REE, trừ Eu. Do đó
felspat có tác động yếu lên mô hình REE nóng chảy, ngoại trừ nảy sinh dị thường
âm của Eu là do hậu quả của giá trị cao đối với Eu. Độ lớn của dị thường Eu
giảm đi theo sự tăng của fO2 (độ fugat oxy) và nhiệt độ. Vì
thế dị thường Europi, đặc biệt trong magma axit, được quyết định chủ yếu bởi
felspat, bởi vì Eu (hoá trị 2) là nguyên tố tương hợp trong plagioclas và
felspat kali, trong khi đó các nguyên tố REE còn lại (ở dạng hoá trị 3) là
nguyên tố không tương hợp. Nếu trong quá trình thành tạo đá do quá trình kết
tinh phân đoạn hoặc nóng chảy từng phần, felspat lưu lại trong nguồn, thì thấy
được dị thường Eu âm trong dung thể.
Granat có các giá trị D rất thấp đối với REE nhẹ,
đồng thời giá trị này tăng cao hơn đối với REE nặng. Ví dụ, như trong dung thể
bazan, hệ số phân bố của Lu trong granat lớn hơn 1000 lần so với La. Vì vậy,
khi có mặt granat cân bằng với magma, sẽ dẫn đến sự suy kiệt REE nặng (Hình
2.17).
Orthopyroxen và clinopyroxen giàu Ca thường có D
< 1, nhưng đối với REE nhẹ, giá trị D lại hơi thấp hơn so với REE nặng hơn,
điều đó có thể dẫn đến làm giàu REE nhẹ trong dung thể.
Các giá trị D của olivin đối với tất cả REE đều nhỏ hơn
0,1, vì vậy sự có mặt của nó sẽ làm giàu tương ứng đối với mọi REE.
Hệ số phân bố D đối với REE của horblend phụ thuộc
mạnh vào thành phần và có thể lớn hơn 10 đối với REE trung gian trong các hệ
giàu silic. Do vậy sự kết tinh phân đoạn của horblend từ các magma thành phần
trung tính có thể dẫn tới sự suy kiệt tương đối của REE trung gian. REE là tương
hợp với horblend trong các dung thể thành phần axit và trung tính, còn hệ số
phân bố cực đại thấy được ở các nguyên tố thuộc dãy Dy-Er. Hệ số phân bố của
các nguyên tố này cao, có nghĩa là số lượng horblend thậm chí ở mức bình thường
(20-30%) có ảnh hưởng lớn tới hệ số phân bố chung và do đó ảnh hưởng đến dạng
đồ hình phân bố REE. Ngoài ra sự tăng REE nhóm nhẹ so với nhóm nặng trong dung
thể axit có thể được giải thích bằng sự có mặt horblend trong các pha tàn dư
(restite).
Biotit thường có giá trị D thấp đối với REE và sự có
mặt của nó có thể tác động tương đối nhỏ lên dạng đồ hình phân bố REE.
Trong dung thể axit, các pha khoáng vật phụ như sphen,
zircon, allanit, apatit và monasit có thể có ảnh hưởng mạnh đến trend phân bố
REE, mặc dù phần lớn chúng chỉ có mặt trong đá với lượng rất nhỏ (thường <
1%); hệ số phân bố của chúng rất cao cho phép giả thiết sự có mặt của các
khoáng vật này trong nguồn có thể ảnh hưởng đáng kể đến đặc điểm của các đường
cong phân bố REE. Sự có mặt của zircon dẫn đến (như ở trường hợp granat) làm
suy kiệt REE nhóm nặng; sphen và apatit làm giảm hàm lượng các nguyên tố đất
hiếm trung gian so với nhóm nhẹ và nặng, còn monasit và allanit làm nghèo REE
nhóm nhẹ.
Trong một vài trường hợp, horblend, sphen,
clinopyroxen, orthopyroxen và granat, dù là có hàm lượng khá thấp so với
felspat, có thể là nguyên nhân gây ra dị thường Eu trong dung thể axit, tuy
nhiên ở đây thấy được dị thường Eu dương.
2.2.3. Luận giải các biểu đồ đa nguyên tố.
Trên các biểu đồ đa nguyên tố có nhiều dị thường
phản ánh hành vi của nhóm các nguyên tố vết khác nhau. Ví dụ như hành vi tương
phản của các nguyên tố lithophil ion lớn linh động hơn (Cs, Rb, K, Ba, Sr, Eu)
và các nguyên tố trường lực mạnh kém linh động hơn (Y, Hf, Zr, Ti, Nb, Ta).
Hình 2.18. Biểu đồ chân nhện
của các bazan dãy núi đại dương (MORB),
đảo đại dương (OIB) và cung đảo, được chuẩn hoá theo (a) Thompson và nnk (1984)
và Sun (1980) (giải thích xem trong phần viết)
Điều đó là
do hàm lượng của các nguyên tố lithophil ion lớn có thể phụ thuộc vào hành vi
của pha chất lưu, trong khi đó hàm lượng các nguyên tố trường lực mạnh lại phụ
thuộc vào thành phần của nguồn và phụ thuộc vào các quá trình khác xảy ra trong
quá trình tiến hoá magma. Các nguyên tố lithophil ion lớn linh động có thể sử
dụng như chỉ thị cho magma đồng hoá vỏ, vì chúng tập trung trong vỏ lục địa.
Dị thường âm của Sr có thể do kết tinh phân đoạn của plagioclas trong nhiều
bazan; ngược lại, dị thường âm ở Th và Rb kết hợp với dị thường âm của Nb-Ta có
thể nghĩ đến magma bị hỗn nhiễm các vật liệu phần thấp vỏ lục địa. Đối với một
số dung nham siêu kali của mảng nội lục, trên biểu đồ chân nhện xuất hiện dị
thường âm kali, chứng tỏ có phlogopit tàn dư trong nguồn (Bảng 2.4).
Các biểu đồ chân nhện của các bazan dãy núi giữa đại
dương, cung đảo và đảo đại dương được thể hiện trên Hình 2.18. Bazan dãy núi
giữa đại dương (MORB) được coi là sản phẩm của quá trình nóng chảy từng phần,
do đó đồ hình phản ánh nguyên tố vết trong nguồn manti của chúng. Nói chung,
các nguyên tố không tương hợp kém hơn (nằm phía bên phải của đồ hình) sẽ được
làm giàu ít hơn trong quá trình nóng chảy từng phần. Ngoài ra kết tinh phân
đoạn tiếp theo sau sự chia tách magma có thể làm nghiêng đồ hình lên hơn nữa.
Nóng chảy từng phần có khả năng tạo ra một khối lượng magma rất lớn ở dãy núi
giữa đại dương, vì vậy nguồn MORB chắc là bị rút kiệt nhiều các nguyên tố
không tương hợp, như K và Rb và có phần ít hơn là Nb và La. Người ta cho
rằng sự suy kiệt này liên quan tới quá trình hình thành vỏ lục địa.
Ngược lại với đồ hình MORB, đồ hình của bazan kiềm
đảo đại dương (OIB) cho thấy nguyên tố không tương hợp được làm giàu mạnh
nhất với đỉnh ở Nb-Ta và cho phép suy đoán nguồn cũng có thể được làm giàu các
nguyên tố không tương hợp. Nói chung, các biểu đồ chân nhện của tất cả bazan
magnesi đảo đại dương (cả tholeit và kiềm) có dạng cong lồi ít dao động.
Bảng 2.4. Tóm tắt luận giải hành vi một số nguyên tố
vết trong thạch luận nguồn gốc (theo Green, 1980)
Nguyên tố |
Luận giải |
Ni, Co, Cr |
Hàm lượng cao (ví dụ Ni =
250-300 ppm, Cr = 500-600 ppm) của các nguyên tố này là những chỉ thị tốt
magma nguyên sinh dẫn xuất từ nguồn peridotit manti; Giảm hàm lượng Ni (ít
nhiều kéo theo cả Co) của cả loạt đá nói lên có sự phân đoạn olivin; Giảm hàm lượng Cr chỉ ra
có sự phân đoạn của spinel hoặc clinopyroxen. |
V, Ti |
Những nguyên tố này có hành
vi tương tự trong quá trình nóng chảy và kết tinh. Chúng chỉ thị cho sự phân
đoạn các oxid Fe-Ti (ilmenit hoặc titanomagnetit). Khi V và Ti có hành vi
khác nhau thì Ti thay thế trong một số pha phụ như sphen hoặc rutil có thể
xảy ra |
Zr, Hf |
Đây là những nguyên tố
không tương hợp kinh điển không dễ dàng thay thế trong các pha manti chính.
Tuy nhiên chúng có thể thay thế cho Ti trong các pha phụ như sphen, rutil. |
Ba, Rb |
Thay thế cho K trong felspat-K,
horblend và biotit; những thay đổi về hàm lượng của chúng hoặc tỉ số K/Ba,
K/Rb có thể biểu thị vai trò của các pha này trong thạch sinh. |
Sr |
Thay thế dễ dàng cho Ca
trong plagioclas và K trong felspat-K. Sr hoặc tỉ số Ca/Sr là một chỉ thị về
sự liên quan của plagioclas ở mức nông. Sr có hành vi một nguyên tố không tương
hợp trong manti |
REE |
Granat và có thể cả
horblend dễ dàng dung nạp REE nặng và phân tách mạnh REE nhẹ. Sphen có tác
động ngược lại trong việc điều tiết REE nhẹ. Clinopyroxen phân tách REE
nhưng rất nhẹ nhàng. Eu bị phân tách mạnh mẽ vào trong felspat và các dị
thường Eu, có thể phản ánh liên quan tới felspat. |
Y |
Thường hoạt động như là
một nguyên tố không tương hợp giống như REE nặng. Nó dễ được điều tiết trong
granat và amphibol, ít hơn trong pyroxen. Có mặt sphen hoặc apatit có thể có
ảnh hưởng đến sự dồi dào Y. |
Nếu đồ hình chân nhện của MORB và OIB tương đối ít
dao động, thì đồ hình của bazan liên quan tới đới chúc chìm bị uốn gập mạnh với
các đỉnh nhọn. Các đỉnh dương hầu hết là do các hợp phần chất lưu đới chúc
chìm bổ sung vào nguồn manti của các bazan. Một đặc điểm đặc trưng ổn định
nhất là dị thường âm của Nb-Ta trên biểu đồ chân nhện của bazan cung núi lửa và
được giải thích những nguyên tố này được giữ lại trong nguồn khi nóng chảy từng
phần. Tuy nhiên dị thường âm tương tự cũng là một đặc điểm điển hình của đồ
hình chân nhện của các bazan đã trải qua hỗn nhiễm vỏ, và vì vậy phải chú ý
kiểm nghiệm khi luận giải các kiểu đồ hình này, không nên vội vàng kết luận
theo một nguyên tố có tính cảnh báo.
2.2.4. Các mô hình nóng chảy và kết tinh
Nghiên cứu địa hoá các nguyên tố vết thật sự có ích
nếu biết được các quá trình địa chất khống chế sự tập trung chúng. Điều này chỉ
có thể thực hiện trên cơ sở xây dựng mô hình toán học một số các quá trình đã
được nghiên cứu kĩ càng. Để xây dựng mô hình địa hoá đúng đắn cần có ba điều
kiện sau: 1) cần biết chính xác hàm lượng các nguyên tố vết; 2) cần lựa chọn hệ
số phân bố phù hợp với điều kiện mô hình dự kiến; 3) cần biết thành phần khoáng
vật và hoá học của nguồn để tính toán. Rất tiếc điều kiện thứ ba không phải lúc
nào cũng có được, vì vậy phải giả định thành phần có tính lí thuyết.
Dưới đây trình bày khái quát một số mô hình nóng
chảy và kết tinh được sử dụng nhiều trong thạch luận.
Nóng chảy từng phần (Partial melting)
Có hai kiểu nóng chảy từng phần: nóng chảy từng mẻ
(batch melting) và nóng chảy phân đoạn (fractional melting), hay nóng chảy
Rayleigh.
Nóng chảy từng mẻ (còn được gọi là nóng chảy từng phần cân bằng
hay đơn giản gọi là nóng chảy cân bằng) là mô hình đơn giản nhất của
nóng chảy từng phần, trong đó pha lỏng nằm tại chỗ và thường xuyên tiếp xúc,
cân bằng hoá học với vật liệu tàn dư cho đến khi các điều kiện cho phép tách
thành “mẻ” ra khỏi magma nguyên thuỷ. Nồng độ một nguyên tố vết trong dung thể
lỏng (CL) có quan hệ với nồng độ nguyên tố trong nguồn chưa bị nóng
chảy (C0) theo phương trình
CL / C0 = 1 / [ D + F (1 – D )] (2.1)
và nồng độ của nguyên tố vết trong vật liệu tàn dư chưa nóng chảy (CS
) có quan hệ với nguồn chưa nóng chảy (C0) là
CS / C0
= D / [ D + F (1 – D)]
(2.2)
Ở đây D là hệ số phân bố tổng thể của pha cứng tàn dư ở thời điểm dung
thể được tách ra khỏi hệ và F là trọng lượng phần dung thể lỏng được tạo thành.
Rõ ràng mức độ nóng chảy từng phần tăng lên khiến
nhiều khoáng vật bị biến mất, làm cho giá trị D biến đổi không liên tục. Điều
này rất quan trọng đối với sự nóng chảy của vật liệu manti, bởi vì các pha phụ
như granat, amphibol và plagioclas kết thúc nóng chảy sớm hơn đáng kể so với
olivin và orthopyroxen. Do vậy, tác dụng của chúng về giảm độ giàu các nguyên
tố đất hiếm nặng, K và Sr trong dung thể sẽ chỉ biểu hiện cho mức độ nóng chảy
thấp (thường < 10%). Để đơn giản hoá vấn đề, đồ thị (Hình 2.19a) phản ánh
mối tương quan giữa CL / C0 với F cho trường hợp D
không đổi. Có thể thấy ngay rằng nồng độ nguyên tố không tương hợp trong dung
thể có thể đạt giá trị 1/F (khi D = 0) và đạt giá trị rất cao khi mức độ nóng
chảy rất thấp và giá trị cực đại là 1/D (khi F = 0). Điều này khống chế mức độ
nóng chảy trong việc sinh ra magma nguyên sinh và nồng độ nguyên tố vết không
tương hợp trong manti. Do vậy trong quá trình nóng chảy từng phần của
peridotit chứa granat mà chúng ta đã tính ở trên DCe = 0,012, nồng
độ cực đại của Ce trong dung thể là trên 80:
CL / C0 = 1/D = 1/ 0,012 >
80
Bazan kiềm, do có hàm lượng REE nhẹ gấp 100 lần so
với chondrit, chỉ có thể thành tạo trực tiếp từ manti có thành phần hoá học gần
giống với thiên thạch chondrit trong điều kiện mức độ nóng chảy cực nhỏ. Kay và
Gast (1973) cho rằng manti phải chứa lượng REE gấp từ 2 đến 5 lần so với trong
chondrit và rằng bazan kiềm là kết quả của sự nóng chảy với mức độ 2%,
nephelinit là 1% và bazan siêu kali là 0,5% hoặc nhỏ hơn. Như vậy các đá có
nguồn gốc từ manti thường có nồng độ nguyên tố đất hiếm nhẹ lớn hơn đất hiếm
nặng.
Trở lại Hình 2.19a, ta thấy CL / C0
của nguyên tố tương hợp với D > 1 đạt gần bằng 1/D khi F gần bằng không,
nhất là khi D cao và chỉ tăng tới giới hạn = 1 khi F đạt giá trị cực đại.
Cần nhớ rằng, để có nóng chảy toàn phần (F = 1), cần
có điều kiện vật lí đặc biệt - đại đa số các hệ sẽ trở nên không bền về mặt cơ học
do chất lỏng sẽ trở nên lỏng hơn so với tàn dư khi nóng chảy đạt 30%. Nồng độ
của các nguyên tố (cả tương hợp lẫn không tương hợp) trong pha tàn dư chịu
nhiệt (CR) được biểu diễn bằng đẳng thức: CR = D x CL
và ngay cả khi mức độ nóng chảy nhỏ, pha tàn dư cũng trở nên cực nghèo nguyên
tố không tương hợp, trong khi đó các nguyên tố tương hợp vẫn giữ nguyên nồng
độ như nguyên thuỷ. Mối quan hệ này cho phép ta đánh giá được hàm lượng trung
bình của Ni và Cr trong manti trên và trong magma nguyên sinh dẫn xuất từ đó.
Các nodul siêu mafic, ví dụ trong kimberlit, không còn nghi ngờ gì nữa, là mẫu
vật của vật chất manti ở độ sâu khoảng 100 km. Hàm lượng trung bình của Ni =
2400 ppm, Cr = 2700 ppm phải gần với hàm lượng của chúng trong manti
chưa nóng chảy. Nếu làm tròn DNi = 7 và DCr = 3 đối với
các pha tàn dư thì magma nguyên sinh thành tạo ở 50% nóng chảy từng phần phải
chứa Ni = 2700 : 7 = 350 ppm và Cr = 2700 : 3 = 900 ppm. Các đá núi lửa chưa
bão hoà silic nhìn chung có hàm lượng các nguyên tố này cao hơn nhiều so với
tholeit và andesit, do đó bazan kiềm với Ni ằ 200 ppm được xem như có liên
quan trực tiếp với vật chất nóng chảy manti. Mức độ nóng chảy nhỏ cũng có thể
gây ra những biến đổi lớn cho tỉ lệ của hai nguyên tố không tương hợp với DS
khác nhau (như K/Ba, Ce/Sm và Ce/Yb). Khi D không đổi, yếu tố làm giàu giới
hạn của một nguyên tố so với nguyên tố khác là D2/D1. Trở
lại với peridotit chứa granat, nếu DYb/DCe là 20 thì với
độ nóng chảy 1%, tỉ số Ce/Yb sẽ là 12 lần so với trong nguồn, với 10% nóng chảy
thì sẽ bằng 3 lần so với nguồn. Giá trị D nhỏ nhất thì ảnh hưởng nhỏ hơn.
Chẳng hạn cũng với tổ hợp đó DRb = 0,001 và DSr = 0,01
thì Rb/Sr chỉ là 1,8 đối với 1% nóng chảy và 1,1 đối với 10% nóng chảy.
Nóng chảy từng mẻ gia tăng (incremental batch
melting)
Nóng chảy từng mẻ gia tăng (một dạng mở rộng của mô
hình nóng chảy từng mẻ) là quá trình nóng chảy ở đó các mẻ dung thể được tách
ra lặp đi lặp lại, mỗi mẻ được xác định bởi một quá trình cân bằng từ cùng một
nguồn (đôi khi được xem như “nóng chảy phân đoạn”). Để mô tả quá trình này
công thức ở phần trước vẫn được áp dụng với điều kiện là thành phần nguyên
thuỷ đối với từng giai đoạn, một cách gần đúng, được xem như là nồng độ tàn dư
từ giai đoạn trước đó.
Ví dụ, trong một quá trình nóng chảy hai giai đoạn
với hợp phần nóng chảy là F1 và F2 thì nồng độ của nguyên
tố vết trong chất lỏng thứ hai được tính theo công thức:
(2.3)
và nồng độ nguyên tố vết trong pha tàn dư thứ hai được tính là CR2
= D2CL2.
Mức độ suy kiệt của các nguyên tố không tương
hợp trong các pha tàn dư liên tiếp và các chất lỏng dẫn xuất từ chúng là nhanh
hơn rất nhiều so với trong nóng chảy cân bằng một mẻ và các chất lỏng muộn hơn
sẽ có các nồng độ nguyên tố không tương hợp và các tỉ số nguyên tố không tương
hợp / nguyên tố tương hợp thấp hơn so với trong vật liệu nguồn.
Điều này rất quan trọng trong việc đánh giá
thạch luận nguồn gốc của tholeit dãy núi giữa đại dương. Ở các đá này (và một
số ophiolit), các nguyên tố vết lithophil bị suy kiệt. Hàm lượng REE nhẹ trong
chúng (gấp từ 3 đến 8 lần trong chondrit) luôn luôn nhỏ hơn REE nặng (gấp từ 7
đến 12 lần chondrit). Vì DCe < DYb, nên tỉ số Ce/Yb
trong miền nguồn còn nhỏ hơn cả trong các đá này và do đó không thể nghĩ đến
một manti có thành phần hoá học giống với các thiên thạch. Vì thế Gast (1968)
đã giả định rằng nguồn của tholeit đại dương (có lẽ đới vận tốc thấp) đã bị
suy kiệt từ trước do mất một lượng nhỏ dung thể nóng chảy từng phần. Để kiểm
tra giả thuyết này, chúng ta có thể tính sự gia tăng (làm giàu) Ce và Yb trong
dung thể thứ hai theo công thức trên. Đối với giai đoạn đầu tiên của quá trình
nóng chảy, chúng ta có thể lấy số liệu của peridotit chứa granat ở phần trên và
F1 = 0,01 (1% nóng chảy), còn đối với giai đoạn hai, ta tính lại DCe,
DYb trên cơ sở granat tự do, bởi vì granat bị phân huỷ nhanh hơn khi
nóng chảy từng phần mạnh lên và cũng vì nó không bền vững ở độ sâu của đới vận
tốc truyền sóng thấp (low-velocity zone). Các giá trị giai đoạn thứ hai của DCe
là 0,012 (như trước) và DYb = 0,045. Thay các giá trị này và F2
= 0,15 (15% dung thể) vào công thức (2.3) ta có: CCe2/ C0
= 3,4 và CYb2/ C0 = 5. Tức là sự gia tăng (làm giàu) của
Ce và Yb trong dung thể thứ hai tương quan với nồng độ của chúng trong nguồn
nguyên thuỷ là 3,4 và 5. Điều này cho thấy số liệu về REE phù hợp với giả
thuyết của Gast nếu điều kiện nguồn nguyên thuỷ có lượng REE nhiều gấp hai lần
thiên thạch chondrit và dung thể nóng chảy từng phần đầu tiên (rất nhỏ) được
tách ra khỏi vật liệu nóng chảy ở độ sâu, nơi granat vẫn bền vững.
Nóng
chảy Rayleigh
Toàn bộ các
quá trình Rayleigh được gọi theo tên tác giả, nhà vật lí nổi tiếng, người đã
lập phương trình để mô tả sự phân đoạn trong khi chưng cất. Đây là mô hình nóng
chảy trong đó một lượng vô cùng nhỏ chất lỏng được tạo thành cân bằng với pha
tàn dư và sau đó được tách khỏi hệ. Tuy rằng điều này không thể thực hiện được
về phương diện vật lí cho một mô hình thành tạo magma, nó vẫn được sử dụng với
mục đích làm sáng tỏ giới hạn biến đổi của nồng độ các nguyên tố vết trong dung
thể và pha tàn dư, nơi dung thể di chuyển nhanh chóng hơn so với tốc độ
khuyếch tán trong pha cứng. Nó có thể sử dụng cho quá trình biến chất trao đổi
của manti và cho dung thể giàu chất lưu CO2.
Do hệ số phân bố từ tàn dư dung thể sớm hơn đã được
tính đến (như ví dụ trước), các khoáng vật có mặt đầu tiên có thể ảnh hưởng
đến thành phần dung thể cuối cùng ngay cả khi chúng bị tiêu thụ hết. Vì thế, và
hơn nữa, D thay đổi liên tục trong quá trình nóng chảy, việc tính toán chính
xác tương quan nồng độ rất phức tạp. Trong trường hợp này, thuận tiện hơn cả
là khảo sát các D đối với thành phần xuất phát và mức tương quan của sự nóng
chảy cho từng pha. Tương quan nồng độ của một nguyên tố trong dung thể và
trong nguồn chưa nóng chảy được thể hiện qua biểu thức:
(khi
D là hằng số) (2.4)
Sự biến thiên nồng độ ở đây mạnh hơn nhiều so với trường
hợp nóng chảy từng mẻ (Hình 2.19b). Giới hạn gia tăng của nguyên tố không tương
hợp trong dung thể vẫn là 1/D, nhưng của nguyên tố tương hợp tiến tới vô cùng
lớn khi F tiến tới 1. Dung thể vẫn cân bằng với pha tàn dư, do đó nồng độ
nguyên tố vết trong pha tàn dư CR = DCL còn lớn hơn. Kéo
theo các nguyên tố không tương hợp có khả năng tách ra mạnh hơn từ nguồn so
với trong nóng chảy từng mẻ gia tăng.
Kết tinh phân đoạn / Phân
đoạn Rayleigh
Chúng ta đã biết thành phần nguyên tố chính của các
bazan trong phần lớn trường hợp không ở trạng thái cân bằng với thành phần
khoáng vật lí thuyết của miền nguồn manti. Do các tinh thể tách ra, thành phần
bazan thay đổi đáng kể trong quá trình đi lên. Ở đây sẽ xem xét ảnh hưởng của
quá trình phân đoạn lên sự phân bố các nguyên tố vết. Chúng ta nhớ lại C0
là nồng độ nguyên thuỷ của một nguyên tố trong magma nguyên sinh, còn CL
là nồng độ của nguyên tố đó sinh ra trong quá trình nóng chảy từng phần.
Nếu toàn bộ sản phẩm kết tinh được giữ nguyên trong
trạng thái cân bằng hoá học với magma thì vấn đề lại trở về với quá trình nóng
chảy từng mẻ và phương trình của nó vẫn được áp dụng (F bây giờ trở thành thành
phần của chất lỏng nguyên thuỷ còn lại). Tuy nhiên điều này có vẻ không ổn – sự
lớn lên của các tinh thể phân đới có lẽ xảy ra nhanh hơn việc chúng tái cân
bằng với sự thay đổi thành phần pha lỏng và trọng lực sẽ tách các pha nặng hơn
càng nhiều khi pha lỏng càng sinh ra nhiều. Vì thế định luật Rayleigh có lẽ cho
một mô hình tốt hơn đối với sự kết tinh phân đọan, bởi vì mô hình cân bằng hầu
như chỉ gần đúng cho quá trình nóng chảy từng phần.
Trường hợp đơn giản nhất là một hệ đóng trong đó
một thể magma bị cô lập trong lò magma và liên tục diễn ra quá trình kết tinh
phân đoạn. Dung dịch lần này khác với trong nóng chảy Rayleigh ở chỗ chất lỏng
là một pha dự trữ đồng nhất và tinh thể liên tục được tách ra ngay sau khi vừa
thành tạo, do đó ta có: CL/C0 = F(D-1). Hơn
nữa toàn bộ pha tàn dư không bao giờ cân bằng với chất lỏng (ngoại trừ lượng
vô cùng nhỏ tinh thể đầu tiên), do đó nồng độ nguyên tố vết trong pha tàn dư CR
được rút ra từ nguyên lí thứ nhất: CR/C0 = (1–F)(D
–1). Điều này được phản ánh trên Hình 2.19c. Sự làm giàu nguyên tố không
tương hợp (D< 1) hoàn toàn giống với trường hợp dung dịch cân bằng cho đến
khi trên 75% dung thể magma được kết tinh, khi đó nó nhanh chóng đạt giá trị
1/F (Dđ 0). Còn đối với các nguyên tố tương hợp cũng có sự khác biệt lớn so với
mô hình cân bằng, chúng bị tách ra nhanh hơn ngay từ khi những pha cứng mới
được thành tạo, do vậy nồng độ của chúng trong pha lỏng nhanh chóng giảm xuống
dưới 1/D. Chẳng hạn khi DNi = 7 là một giá trị hợp lí đối với sự
kết tinh một tổ hợp olivin-orthopyroxen-spinel-clinopyroxen, nồng độ Ni nguyên
thuỷ bị giảm đi một nửa khi 10% dung thể được kết tinh và mất đi 98% khi 50%
dung thể kết tinh. Như vậy các tinh thể kết tinh muộn sẽ cực nghèo các nguyên
tố tương hợp. Ví dụ hàm lượng Ni trong olivin của khối xâm nhập Skaergaard
giảm từ 2000 ppm (trong các đá sát đáy) xuống 400 ppm (trong đới dưới) và 5
ppm hoặc thấp hơn trong đới trên (nồng độ cân bằng trong magma sẽ 10 lần nhỏ
hơn). Hành vi tương tự đối với Cr trong pyroxen và V trong ilmenit và
magnetit.
Mặt khác, khả năng tập trung
một nguyên tố không tương hợp này so với nguyên tố không tương hợp khác trong
quá trình kết tinh phân đoạn hệ kín kém hơn nhiều so với nóng chảy từng phần
cân bằng. Giả thử DCe = 0,10 và DYb = 0,15 là các giá trị
thích hợp đối với thể xâm nhập Skaergaard thì độ giàu tương đối tính bằng chỉ là 1,1 khi đã có
85% tinh thể kết tinh và là 1,2 khi 97% tinh thể hình thành. Các tỉ lệ K/Rb và
K/Ba còn ít bị ảnh hưởng hơn so với Ce/Yb, nhưng Rb/Sr sẽ tăng cực mạnh một
khi plagioclas được kết tinh và Sr trở thành nguyên tố tương hợp. Magma
granophyr muộn ở Skaergaard có tỉ số Rb/Sr gấp hơn 50 lần trong dung dịch
nguyên sinh.
Đới thấm lọc (Zone Refining)
Một thể magma di chuyển tiếp xúc với vật liệu cứng
thì phản ứng giữa chúng có thể xảy ra. Khi thể cứng có thành phần hoàn toàn
khác với miền nguồn magma, chúng ta có hiện tượng hỗn nhiễm (contamination).
Tuy nhiên, ngay từ đầu, magma cũng có thể di chuyển lên vùng cao hơn của chính
miền nguồn nguyên sinh của nó chưa bị nóng chảy. Về quy mô, ở đó phản ứng có
thể xảy ra hiện vẫn còn tranh cãi, nhưng một trường hợp có giới hạn được thể
hiện bằng sự cân bằng hoàn toàn. Trường hợp này xảy ra ở đới thấm lọc do nóng
chảy toàn phần ở phía trước magma và lắng đọng các tinh thể ở phía sau nó gây
nên. Vì thế các nguyên tố tương hợp (D <1) về cơ bản không thay đổi, dao
động xung quanh mức nồng độ 1/D trong quá trình tái cân bằng (xem H.2.19a) và
không bị quá trình này ảnh hưởng tới. Tuy nhiên các nguyên tố không tương hợp
lại không ngừng được làm giàu theo phương trình:
trong đó n là số khối lượng đá tương đương đã phản ứng với
chất lỏng. Như vậy khối lượng chất lỏng càng lớn so với thể cứng thì nồng độ
của nguyên tố không tương hợp được làm giàu càng lớn và giới hạn của chúng
cũng chỉ đến 1/D, khi khối lượng chất lỏng gấp hàng chục hoặc hàng trăm lần thể
cứng. Một magma tiến hoá theo con đường này đòi hỏi sự cung cấp liên tục nhiệt
lượng để đồng hoá các vật liệu cứng gặp trên đường đi và điều kiện địa chất
đáp ứng yêu cầu này xem ra rất khó. Mặt khác, một số tác giả đã phản bác rằng tác
dụng tương tự vẫn xảy ra khi không có quá trình đồng hoá, nó là kết quả của
quá trình khuyếch tán các nguyên tố không tương hợp từ đá vây quanh vào trong
magma (Green và Ringwood, 1967). Xung quanh vấn đề này còn nhiều bàn cãi, như
Cox, Bell và Pankhurst (1979) cho rằng quá trình khuyếch tán chỉ đúng với các
nguyên tố dễ bay hơi (K, Rb), còn lại thì khó tưởng tượng mức độ khuyếch tán
cao của REE, hơn nữa, ở miền lân cận của kênh dẫn magma, các nguyên tố không tương
hợp bị thu hút hết và điều này tự nó đã giới hạn sự tiến triển tiếp theo của
quá trình.
Quan niệm cho rằng một magma có nguồn gốc sâu
thay đổi tính chất hoá học của nó như là kết quả phản ứng giữa nó với vật liệu
vỏ là một trong những quan điểm cổ nhất của thạch luận magma. Các giả thuyết
hỗn nhiễm luôn luôn gặp sự chống đối mạnh mẽ và một số vẫn tồn tại thi gan cùng
với thời gian. Tuy nhiên địa hoá học hiện đại đã chứng minh sự sụp đổ của nhiều
quan điểm cũ, đồng thời xây dựng lên những giả thuyết hỗn nhiễm mới.
Các nguyên tố vết và tỉ số giữa chúng chịu
tác động mạnh mẽ của quá trình phong hoá. Vì vậy mọi việc liên quan đến nguyên
tố vết phải được thực hiện trên đá tươi. Nhưng các hình thái biến đổi khác ở
điều kiện cân bằng áp suất và nhiệt độ thấp cũng xảy ra quá trình thay thế
magma, ví dụ như phản ứng nhiệt dịch. Bằng chứng rõ ràng nhất của ảnh hưởng
này được thể hiện trên số liệu địa hoá đồng vị. Nhưng có một trường hợp riêng
liên quan đến nguyên tố vết, đó là phản ứng giữa magma đại dương với nước
biển. Những nguyên tố bị ảnh hưởng nhiều nhất và được làm giàu trong các đá
magma bị biến đổi là các nguyên tố linh động nhất (tức là dễ hoà tan nhất)
trong quá trình phong hoá và được tập trung trong nước biển: Na, K, Rb, Cs, Sr,
Ba và P. Ảnh hưởng càng lớn hơn đối với các nguyên tố có bán kính ion lớn, do
đó các tỉ lệ K/Rb, Rb/Cs và Sr/Ba là nhỏ trong các đá biến đổi. Mặt khác Ti,
Zr, Nb, Y và REE nặng lại cực kì bền vững trong mọi quá trình biến đổi (và tương
đối nghèo trong nước biển). Vì vậy có thể sử dụng các nguyên tố này trong thạch
luận các đá bị phong hoá và bazan bị biến chất (Pearce & Cann, 1973;
Winchester & Floyd, 1976).
Hiện tượng hỗn nhiễm, theo nghĩa thông
thường, là sự đồng hoá của magma đối với các đá của vỏ và quá trình có thể tuân
thủ với mô hình hòa trộn. Các hình thái hoà trộn khác là các kiểu có sự tham
gia của hai magma (hybridisation) hoặc của hai hoặc của nhiều thể cứng. Mục
đích của chúng ta là kiểm nghiệm sự phù hợp với giả thuyết hoà trộn và xác định
thành phần của các thành viên đầu- cuối. Sự kiểm định có thể dựa trên đồ thị
hai chiều đối với hoặc nồng độ của nguyên tố hoặc tỉ số giữa chúng (có thể cả
tỉ số đồng vị). Nguyên tố vết nhìn chung rất thích hợp với mục đích này vì
chúng thường xuyên cho những mức biến đổi lớn hơn so với nguyên tố chính. Khi
một nguyên tố được vẽ đồ thị tương quan với nguyên tố khác, số liệu hoà trộn
sẽ vạch ra một đường thẳng nối các thành phần hai đầu mút, còn các mẫu khác
không phù hợp với giả thiết hoà trộn sẽ nằm cách xa đường thẳng này. Tuy nhiên
các quá trình magma khác như nóng chảy từng phần và kết tinh phân đoạn cũng
cho gần đúng tương quan tuyến tính giữa các cặp nguyên tố. Vì vậy sự kiểm định
này không phải là hoàn toàn chính xác. Đối với các mô hình hoà trộn được thể
hiện bằng đường hyperbol dưới dạng:
Ax + Bxy + Cy + D = 0
Trong đó x và y là các thông số được vẽ. Nếu
đặt x = p/q (tỉ số của các nguyên tố hoặc các đồng vị) và y = r/s thì hệ số của
đường parabol sẽ là:
A = q1.s2.y2
– q2.s1.y1
B = q2.s1
– q1.s2
C = q1.s2.x1
– q2.s1.x2
D = q2.s1.x2.y1
– q1.s2.x1.y2
các chỉ số nhỏ nằm dưới thể hiện hai điểm trên đường cong. Để đơn
giản hoá, thay q1 = q2 = 1 khi x là một nguyên tố hơn là
một tỉ số và s1 = s2 = 1 khi y là một nguyên tố. Đồ hình
trở thành một đường thẳng khi B = 0, điều này nói chung chỉ đúng cho đồ thị
nguyên tố – nguyên tố.
Trong thực tế, chúng ta không thể biết thành
phần đầu và cuối. Biện pháp giải quyết là lên các điểm, rồi đánh giá bằng mắt
xem liệu có thể có đường cong hyperbol thích hợp đi qua các điểm biểu diễn
không? Nếu điều này không có được đối với các cặp thông số thì phải loại trừ mô
hình hoà trộn magma; ngược lại thì có thể tính các hệ số của đường hyperbol
như đã nêu trên bằng cách xét hai điểm cách xa nhau và có tính đại diện trên
đồ hình.