3.1
Nhận biết các miền nguồn đồng vị
Trên
cơ sở đặc điểm tương quan giữa các đồng vị Sr, Nd và Pb Taylor (1984) đã chia
ra 3 miền nguồn đồng vị trong vỏ lục địa. Năm 1986 Zindler và Hart mô tả 5 kiểu
thành phần đồng vị đặc trưng trong manti. Đặc điểm đồng vị của các miền nguồn
được thể hiện trong Bảng 5.7 và được biểu diễn trên một loạt biểu đồ tương quan
tỉ lệ đồng vị.
Trước
khi đi vào xem xét thành phần miền nguồn, cần dừng lại khái niệm
và cách tính giá trị e (epsilon).
Thông số epsilon e
Ta
đã biết các tỉ lệ đồng vị đem so sánh với CHUR hoặc DM (xem ở trên) khá là nhỏ.
Vì thế De Paolo và Wasserburg đưa ra “thông số epsilon”. Giá trị e chính là thước đo độ lệch của mẫu hoặc tập
mẫu so với giá trị trong miền nguồn đồng nhất và có thể sử dụng như thông số
chuẩn hoá cho các mẫu có tuổi khác nhau. Nó thường được tính cho Nd (eNd), mặc dù có một số người
tính cho cả đồng vị Sr (eSr). Cách tính eNd và eSr hoàn toàn tương
tự nhau
Cách
tính giá trị epsilon eNd
Các
giá trị epsilon được sử dụng trong 3 cách khác nhau, thể hiện ở 3 cách tính
toán: cho đường đẳng thời , tại thời điểm thành tạo đá và hiện thời .
(a)
Giá trị epsilon tính cho đường đẳng thời
Những
giá trị epsilon thường được tính cho các đường đẳng thời Sm-Nd, là số đo khác
biệt giữa tỉ lệ đồng vị ban đầu của tập mẫu so với CHUR tại thời điểm hình
thành. Chúng được tính theo biểu thức:
(5.48)
ở đây (143Nd/144Nd)i là
tỉ lệ ban đầu xác định được bằng thực nghiệm của tập mẫu tại thời điểm thành
tạo (thời điểm t) và được tính toán nhờ đường đẳng thời; (143Nd/144Nd)CHUR,t
là tỉ lệ đồng vị của CHUR tại thời điểm t và được tính bằng biểu
thức
(5.49)
Những giá trị của CHUR được
lấy từ Bảng 5.5. Cần lưu ý là những phòng thí nghiệm khác nhau sử dụng các giá
trị chuẩn hoá khác nhau cho tỉ lệ 143Nd/144Nd và cần lựa
chọn giá trị chính xác cho CHUR.
(b)Giá trị epsilon tính cho các
đá đơn lẻ tại thời điểm hình thành ()
Các giá trị etNd được tính tại thời điểm t
(thời gian thành tạo các đá) theo biểu thức:
(5.50)
ở đây được tính từ biểu
thức (5.49) và tỉ lệ đồng vị của mẫu đá tại thời gian t được tính theo
biểu thức:
(5.51)
Trong tính toán etNd cho các mẫu riêng lẻ, giá
trị t có thể lấy từ đường đẳng thời, hoặc được xác định độc lập từ các
phương pháp địa thời khác.
(c) Giá trị epsilon tính cho
các đá riêng lẻ tại thời điểm hiện tại ()
Giá trị được tính theo biểu thức:
(5.52)
Độ lớn của giá trị phản ánh mức độ nghèo Nd theo thời gian so với miền nguồn
đồng nhất CHUR.
Ý nghĩa của thông số e
Trị số và dấu etNd đặc trưng cho giá trị “ban
đầu” của eNd trong đá tại thời điểm kết
tinh và nó cho những thông tin về nguồn magma:
- Trị số e dương chứng tỏ dung thể magma xuất sinh từ
miền nguồn có tỉ lệ Sm/Nd lớn hơn so với CHUR, đó là nguồn manti nghèo (DM);
- Trị số e âm nói lên miền nguồn có tỉ
lệ Sm/Nd thấp hơn CHUR, đó chính là nguồn manti giàu (EM) hoặc nguồn vỏ;
- Cuối cùng, nếu e = 0, chứng tỏ magma đã được thành tạo từ
miền nguồn manti có thành phần đồng vị Nd tương tự với chondrit từ khi hình
thành Trái đất cho đến thời điểm t.
Ngoài
ra, các giá trị eNd của các mẫu riêng lẻ được
tính toán nhằm kiểm tra tính cùng nguồn gốc hoặc vai trò hỗn nhiễm của các mẫu
đá khi xây dựng đường đẳng thời.
Các nguồn manti đại dương (Oceanic mantle sources)
Các
đá magma bazan trẻ ghi nhận trực tiếp thành phần đồng vị của miền nguồn, vì
thời gian tồn tại của chúng không đủ để đồng vị mẹ kịp phân rã sinh thành đồng
vị con. Do đó Zindler và Hart (1986) đã sử dụng thành phần đồng vị hiện tại của
các bazan đại dương trẻ để phân ra 5 miền nguồn manti và được thể hiện các trên
biểu đồ (từ Hình 5.10 đến 5.13) và Bảng 5.8. Dưới đây nêu tóm tắt đặc điểm của
các nguồn manti đại dương.
Nguồn manti nghèo (Depleted
Mantle-DM)
Được đặc trưng là tỉ lệ 143Nd/144Nd
cao và 87Sr/86Sr, 206Pb/204Pb thấp.
DM là hợp phần chủ yếu trong nguồn của nhiều MORB (các Hình 5.10, 5.12 và
5.13). Các bazan sống giữa đại dương nghèo đồng vị là kết quả nóng chảy của
manti nghèo tàn dư của Trái đất.
Hình 5.10. Biểu đồ tương
quan đồng vị 143Nd/144Nd - 87Sr/86Sr
thể hiện
các miền nguồn manti đại dương chủ yếu của Zindler và Hart (1986): DM- manti nghèo; BSE- Trái
đất tổng thể; EMI và EMII- manti nghèo kiểu I và II; HIMU- manti có tỉ lệ U/Pb
cao; PREMA- manti thịnh hành. Dãy manti (mantle array) được xác định nhờ nhiều
bazan đại dương; dãy manti cho phép xác định giá trị 87Sr/86Sr
của thành phần tổng thể Trái đất
Nguồn
manti HIMU (nguồn manti cao m ) (High m mantle
- HIMU)
Giá trị m trong địa hoá đồng vị Pb là tỉ lệ 238U/204Pb.
Các tỉ lệ 206Pb/204Pb và 208Pb/204Pb
cao đã thấy ở một số đảo đại dương (OIB), cùng với tỉ lệ 87Sr/86Sr
thấp (= 0,7029) và 143Nd/144Nd trung bình chỉ ra miền
nguồn manti giàu U và Th so với Pb. Sự làm giàu này có lẽ xảy ra trong khoảng
1,5 - 2,0 tỉ năm. Bản chất sự làm giàu urani chưa biết rõ, nhưng có một số mô
hình giảỉ thích về nguồn gốc của manti HIMU: đó là do vỏ đại dương bị biến đổi
hoà trộn vào trong manti, sự mất chì do Pb từ manti đi vào nhân Trái đất và chì
(cả Rb) di chuyển nhờ chất lưu biến chất trao đổi trong manti.
Nguồn manti giàu (Enriched
Mantle-EM)
Manti giàu đặc trưng có các
trị số 87Sr/86Sr thay đổi, 143Nd/144Nd
thấp và 207Pb/204Pb, 208Pb/204Pb
cao ở giá trị 206Pb/204Pb đã cho. Zindler và Hart (1986)
đã phân ra hai kiểu manti giàu: kiểu I (EM I) có 87Sr/86Sr
thấp và kiểu II (EM II) có 87Sr/86Sr cao. Một ví dụ đáng
quan tâm và có tầm cỡ về manti giàu (EM II) đã được Hart (1984) nhận ra ở Nam
Bán cầu và được biết như dị thường DUPAL (gọi theo các tác giả DUPre và ALlegre
(1983), những người đầu tiên nhận ra dị thường đồng vị). Manti giàu được nhận
ra khi chú ý Đường Bắc Bán cầu (Northern Hemisphere Reference Line- NHRL).
Đường này là dãy các bazan sống giữa đại dương và các đảo đại dương sắp thành
tuyến trên các biểu đồ 207Pb/204Pb - 206Pb/204Pb
và 208Pb/204Pb - 206Pb/204Pb
(H.5.12). Phương trình các đường này là:
207Pb/204Pb = 0,1084 (206Pb/204Pb) +
13,491
208Pb/204Pb = 1,209 (206Pb/204Pb) +
15,627
Hình 5.11. Biểu đồ tương quan đồng vị, trên đó chỉ vị trí
tương đối của các miền nguồn manti giàu và nghèo. Đa phần các nguồn manti nằm ở
góc phần tư phía trái, còn hầu hết các đá nguồn vỏ nằm dạt về góc phần tư
"giàu" phía dưới bên phải. Vỏ trên và vỏ dưới chiếm vị trí khác nhau
trong góc phần tư "vỏ" (phỏng theo De Paolo và nnk, 1979)
Dị thường đồng vị được Hart
(1984) thể hiện trong thuật ngữ D7/4 và D8/4, được xem là độ lệch theo chiều đứng so
với NHRL cho tập số liệu đã cho (DS - Data-Set):
D7/4 = [(207Pb/204Pb)DS
- (207Pb/204Pb)NHRL] ´ 100
D8/4 = [(208Pb/204Pb)DS
- (208Pb/204Pb)NHRL] ´ 100
Một kí hiệu tương tự được
dùng cho 87Sr/86Sr:
DSr = [(87Sr/86Sr)DS
- 0,7] ´ 10 000
Giải thích tốt nhất cho
nguồn gốc của manti giàu là có liên quan với đới hút chìm, nơi vật liệu vỏ thâm
nhập vào manti (Hình 5.22). EM II liên quan với vỏ lục địa trên và có thể là
hiện thân cho sự tái sinh của trầm tích lục nguyên, vỏ lục địa, vỏ đại dương
hoặc đảo đại dương bị biến đổi. Sự làm giàu cũng có thể là hệ quả quá trình
trộn lẫn của thạch quyển dưới lục địa với manti. EM I liên quan với lớp vỏ dưới
và có thể đại diện cho vật liệu lớp vỏ dưới bị tái sinh, được quá trình biến
chất trao đổi manti làm giàu. Weaver (1991) quan niệm EM I và EM II được thành
tạo do sự hoà trộn giữa manti HIMU với trầm tích đại dương bị hút chìm.
Nguồn manti thịnh hành
(Prevalent Mantle-PREMA)
Đây là nguồn manti thường
gặp nhất của bazan đảo đại dương, bazan cung đảo nội dương (intra-oceanic
island arc) và bazan lục địa có 143Nd/144Nd = 0,5130 và 87Sr/86Sr
= 0,7033. Đặc điểm đồng vị đó chỉ ra rằng có thành phần manti đồng nhất.
Zindler và Hart (1986) đề nghị gọi kiểu manti này là là nguồn manti thịnh hành
(PREMA) có tỉ lệ 206Pb/204Pb = 18,2 đến 18.
Trái đất tổng thể (Bulk Silicat Earth- BSE) = Nguồn nguyên sinh
đồng nhất
Có lẽ có tồn tại hợp phần
manti mang đặc điểm hoá học của Trái đất tổng thể (Trái đất không có nhân).
Thành phần này tương đồng với thành phần của manti nguyên thuỷ đồng nhất đã
được hình thành trong quá trình khử khí của hành tinh và trong quá trình sinh
thành nhân Trái đất, xảy ra trước khi hình thành các lục địa. Một vài bazan đại
dương có thành phần đồng vị hoàn toàn tương dồng với thành phần của Trái đất
tổng thể, mặc dù hiện nay không có tài liệu địa hoá cần thiết chứng tỏ còn tồn
tại miền nguồn manti này.
Đi theo con đường của
Zindler và Hart, một số nhà bác học đã cố gắng mô tả các đặc điểm các nguyên tố
vết của các miền nguồn manti (Bảng 5.9).
Hình 5.12. (a)
Biểu đồ 208Pb/204Pb - 206Pb/204Pb
chỉ vị trí đường tham chiếu Bắc Bán cầu (NHRL). Giá trị Trái đất tổng thể (BSE)
lấy từ Allegre và nnk., (1988); (b) Biểu đồ 207Pb/204Pb -
206Pb/204Pb chỉ vị trí của đường tham chiếu Bắc Bán cầu
(NHRL), độ nghiêng của nó cho tuổi 1,77 tỉ năm và đường địa thời. Các đá núi
lửa vẽ phía trên đường NHRL nói lên có tín hiệu DUPAL. Các miền nguồn của
Zindler và Hart: DM- manti nghèo; BSE- Trái đất tổng thể; EM I và EM II- manti
giàu; HIMU- manti có tỉ lệ U/Pb cao; PREMA- manti thịnh hành. EM II cũng trùng
với trường trầm tích biển khơi (oceanic pelagic sediment)
Hình 5.13. Các biểu đồ tương
quan đồng vị: (a) 87Sr/86Sr - 206Pb/204Pb
và (b) 143Nd/144Nd. Trên cả hai biểu đồ thể hiện vị trí
của các miền nguồn manti của Zindler và Hart (1986): DMM- manti nghèo của MORB;
BSE- Trái đất tổng thể; EMI và EMII- manti nghèo; HIMU- manti có tỉ lệ U/Pb
cao; PREMA- manti thịnh hành
Bảng 5.8. Đặc
điểm đồng vị của các miền nguồn vỏ và manti (tỉ lệ đồng vị hiện thời để trong
ngoặc đơn) (theo Rollinson H., 1995)
|
87Sr - 86Sr |
147Sm - 143Nd |
238U - 206Pb |
235U - 207Pb |
232Th - 208Pb |
Nguồn vỏ lục địa |
|||||
Vỏ trên |
Rb/Sr cao 87Sr/ 86Sr
cao |
Sm/Nd thấp 143Nd/144Nd
thấp (Epsilon âm) |
U/Pb cao 206Pb/204Pb
cao |
U/Pb cao 207Pb/204Pb
cao |
Th/Pb cao 208Pb/204Pb
cao |
Vỏ giữa |
Rb/Sr (0,2-0,4) cao vừa; 87Sr / 86Sr = (0,72-0,74) |
Tiến hoá Nd chậm trong vỏ
liên quan tới nguồn chondrit |
U nghèo kiệt; 206Pb/204Pb thấp |
U nghèo kiệt; 207Pb/204Pb thấp |
Th cao vừa; 208Pb/204Pb cao vừa |
Vỏ dưới |
Rb nghèo; Rb/Sr< 0,04; 87Sr/ 86Sr thấp
(0,702-0,705) |
U nghèo kiệt mạnh; 206Pb/204Pb rất
thấp (< 14,0) |
U nghèo kiệt mạnh; 207Pb/204Pb rất
thấp (< 14,7) |
Th nghèo kiệt mạnh; 208Pb/204Pb rất
thấp |
|
Thạch quyển dưới lục địa |
|||||
Arkei Proterozoi tới nay |
Rb/Sr thấp Rb/Sr cao |
Sm/Nd thấp Sm/Nd thấp |
|
|
|
Nguồn bazan đại dương (Zindler và Hart, 1986) |
|||||
Manti nghèo |
Rb/Sr thấp; 87Sr/86Sr thấp |
Sm/Nd cao; 143Nd/144Nd cao (Epsilon dương) |
U/Pb thấp; 206Pb/204Pb thấp
(<17,2-17,7) |
U/Pb thấp; 207Pb/204Pb thấp
(<15,4) |
Th/U = 2,4 ±0,4 208Pb/204Pb thấp (<37,2-37,4) |
HIMU |
Rb/Sr thấp; 87Sr/86Sr thấp (0,7029) |
Sm/Nd trung bình (<0,51282) |
U/Pb cao; 206Pb/204Pb cao
(>20,8) |
U/Pb cao; 207Pb/204Pb cao |
Th/Pb cao |
Manti giàu |
|||||
EM I |
Rb/Sr thấp; 87Sr/86Sr = ± 0,705 |
Sm/Nd thấp; 143Nd/144Nd < 0,5112* |
U/Pb thấp; 206Pb/204Pb (17,6-17,7) |
U/Pb thấp; 207Pb/204Pb (15,46-15,49) |
Th/Pb thấp 208Pb/204Pb (38,0-38,2) |
EM II |
Rb/Sr cao; 87Sr/86Sr > 0,722 |
Sm/Nd thấp; 143Nd/144Nd (0,511-0,5121)* |
207Pb/204Pb và 208Pb/204Pb
cao tại 206Pb/204Pb đã cho |
||
|
87Sr/86Sr = 0,7033 |
143Nd/144Nd = 0,5130* |
206Pb/204Pb =
(18,2-18,5) |
||
|
87Sr/86Sr = 0,7052 |
143Nd/144Nd = 0,51264* |
206Pb/204Pb = 18,4 ± 0,3 |
207Pb/204Pb = 15,58 ± 0,08 |
Th/U = 4,2 208Pb/204Pb = 38,9 ± 0,3 |
* Được chuẩn hoá theo 146Nd/144Nd
= 0,7219
Bảng 5.9. Tỉ lệ
nguyên tố vết không tương hợp trong các miền nguồn vỏ và manti (trích trong
Rollinson H., 1995)
|
Zr/Nb |
La/Nb |
Ba/Nb |
Ba/Th |
Rb/Nb |
K/Nb |
Th/Nb |
Th/La |
Ba/La |
Manti ng.thuỷ |
14,8 |
0,94 |
9,0 |
77 |
0,91 |
323 |
0,117 |
0,125 |
9,6 |
NMORB |
30 |
1,07 |
1,7-8,0 |
60 |
0,36 |
210-350 |
0,025-0,071 |
0,067 |
4,0 |
EMORB |
|
|
4,9-8,5 |
|
|
205-230 |
0,06-0,08 |
|
|
Vỏ LĐ |
16,2 |
2,2 |
54 |
124 |
4,7 |
1341 |
0,44 |
0,204 |
25 |
HIMU OIB |
3,2-5,0 |
0,66-0,77 |
4,9-6,9 |
49-77 |
0,35-0,38 |
77-179 |
0,078-0,101 |
0,107-0,133 |
6,8-8,7 |
EMI OIB |
4,2-11,5 |
0,86-1,19 |
11,4-17,8 |
103-154 |
0,88-1,17 |
213-432 |
0,105-0,122 |
0,107-0,128 |
13,2-16,9 |
EMII OIB |
4,5-7,3 |
0,89-1,09 |
7,3-13,3 |
67-84 |
0,59-0,85 |
248-378 |
0,111-0,157 |
0,122-0,163 |
8,3-11,3 |
Các miền nguồn vỏ lục địa
Thành
phần đồng vị của các đá thuộc vỏ lục địa thay đổi rất mạnh và các tỉ lệ đồng vị
chỉ có thể so sánh một cách chính xác, nếu như tất cả các mẫu có cùng một tuổi.
Những khác biệt về thành phần như vậy có liên quan nhiều nhất tới thông số
chuẩn hoá đưa vào tính toán tuổi của mẫu. Một trong những điểm cốt yếu là tuổi
mô hình chondrit của thành phần Trái đất (CHUR) và sự tiến hóa của nó theo thời
gian. Đối với các đồng vị Nd, điều này có thể định lượng trong thông số epsilon.
Các đặc điểm đồng vị chính của miền nguồn vỏ được trình bày trong Bảng 5.8.
Vỏ
lục địa trên (Upper continental crust) đặc trưng có tỉ lệ Rb/Sr và 87Sr/86Sr
cao. Mặt khác, tỉ lệ đồng vị Nd thấp như là hậu quả sự làm giàu nguyên tố đất
hiếm nhẹ và tỉ lệ Sm/Nd thấp đặc trưng cho vỏ lục địa trên. U và Th được làm
giàu trong vỏ lục địa trên khiến cho các tỉ lệ đồng vị 206Pb, 207Pb
và 208Pb cao.
Vỏ
lục địa giữa (Middle continental crust) được xem là diện rộng của gneis tướng amphibolit
trong vùng granit-gneis. Các đá này chậm tiến triển 143Nd/144Nd
và tỉ lệ 87Sr/86Sr thấp hơn trong vỏ trên. Tuy nhiên
nghèo kiệt U và tỉ lệ 206Pb/204Pb và 207Pb/204Pb
có thể thấp hơn so với manti. Thori cũng thấp hơn trong vỏ trên, nhưng không
nghèo kiệt như urani.
Vỏ
lục địa dưới (Lower continental crust) đặc trưng bởi tướng biến chất granulit và thường
rất nghèo Rb. Do đó nó có tỉ lệ 87Sr/86Sr thấp không khác
biệt nhiều so với manti hiện đại. Điều này có nghĩa granit xuất sinh từ vỏ dưới
và granit xuất sinh từ manti sẽ có tỉ lệ đồng vị 87Sr/86Sr
hoàn toàn tương tự nhau. Các tỉ lệ U/Pb và Th/Pb trong vỏ dưới thấp hơn trong
manti hiện đại, do đó các tỉ lệ đồng vị 206Pb, 207Pb và 208Pb
rất thấp và có thể dùng để phân biệt vỏ dưới và các miền nguồn manti.
Thạch
quyển dưới lục địa (Subcontinental lithosphere) có thành phần đồng vị rất
hay biến động theo vị trí và tuổi. Ví dụ, thạch quyển dưới lục địa Scotland
theo Menzies và Halliday không đồng nhất về đồng vị Nd-Sr, mang đặc điểm cả hai
miền nguồn manti giàu EM I và EM II. Một vài sự biến thiên có liên quan với
tuổi của thạch quyển dưới lục địa.
Thạch
quyển dưới lục địa tuổi Arkei nằm kề dưới thạch quyển giàu (EMI) có Rb/Sr,
Sm/Nd thấp. Thạch quyển dưới các đai động Proterozoi lại rất giống với manti
nghèo (DM) nhận thấy dưới đại dương cổ. Các thạch quyển dưới lục địa tuổi từ
Pretorozoi đến Phanerozoi lại đặc trưng giàu Rb và REE nhẹ và giàu Sr phóng xạ
sinh và đồng vị Nd không phóng xạ. Điều này tương tự như manti giàu EM II đã mô
tả ở trên và trong Bảng 5.8.