2.2. Các phương pháp định tuổi dựa trên tích tụ phóng xạ chì (U-Pb,
Th-Pb và Pb-Pb)
Urani và thori
thuộc nhóm actinoid. Cả hai nguyên tố trong tự nhiên ở dạng hoá trị 4, bán kính
nguyên tử của chúng khá gần gũi nhau (U+4
= 1,05 Ao, Th+4 = 1,10Ao).
Do đó hai nguyên tố này thay thế nhau rộng rãi. Tuy nhiên, trong điều kiện oxy
hoá, U thành tạo ion-uraniil , ở đây U có hoá trị +6. Hợp chất ion-uraniil hoà tan trong
nước. Vì thế, trong điều kiện oxy hoá, U trở nên rất linh động và được tách
khỏi thori.
Urani có 3 đồng
vị tự nhiên: 238U, 235U và 234U. Chúng đều có
tính phóng xạ. Thori chỉ có một đồng vị phóng xạ: 232Th. Ngoài ra
trong tự nhiên còn tồn tại 5 đồng vị phóng xạ Th, chúng là sản phẩm con trung
gian, sinh ra do phân rã 238U, 235U và 232Th.
Ba đồng vị này là các đồng vị mẹ, sinh ra dãy sản phẩm đồng vị phóng xạ con và
đều kết thúc bằng đồng vị Pb. Trong tất cả các trường hợp, phân huỷ phóng xạ
đều bức xạ các phần tử a- (4He) và b- dưới dạng:
Đáng lưu ý là
ngoài 3 đồng vị Pb phóng xạ sinh, trong tự nhiên có đồng vị 204Pb
không phải là phóng xạ sinh và được sử dụng làm đồng vị bền so sánh. Các hằng
số phân rã phóng xạ đối với dãy U-Pb và Th-Pb được trình bày trong Bảng 5.3.
Bảng
5.3. Chu kì bán phân rã và các hằng số phân rã phóng xạ của đồng vị U, Th
Đồng
vị mẹ |
Đồng vị con |
Chu kì bán phân rã (năm) |
Hằng số phân rã (năm-1) |
238U |
206Pb |
4,468x109 |
1,55125x1010 |
235U |
207Pb |
0,7038x109 |
9,8485x1010 |
232Th |
208Pb |
14,010x109 |
0,49475x1010 |
Các hằng số phân
rã phóng xạ của các đồng vị U, Th đưa ở bảng trên đã được Uỷ ban Địa thời học
của Hiệp hội Địa chất quốc tế thông qua tại Hội nghị địa chất lần thứ 25. Ngoài
ra, Uỷ ban thừa nhận tỉ lệ nguyên tử 238U/235U = 137,88.
Nếu tỉ lệ 238U/204Pb được kí hiệu là m, suy ra:
235U/204Pb = m/137,88; tỉ lệ 232Th/204Pb
được kí hiệu là w
Tương tự các phương
trình để xác định tuổi Rb-Sr, Sm-Nd và Re-Os, phương trình tổng quát (5.9) có
thể được viết cho mỗi cặp đồng vị mẹ và con như sau:
(206Pb/204Pb)
= (206Pb/204Pb)i + (238U/204Pb)´(el1t-1) (5.17)
(207Pb/204Pb)
= (207Pb/204Pb)i + (235U/204Pb)´(el2t-1) (5.18)
(208Pb/204Pb)
= (208Pb/204Pb)i + (232Th/204Pb)´(el3t-1) (5.19)
ở đây 206Pb/204Pb, 207Pb/204Pb,
208Pb/204Pb - tỉ lệ đồng vị của chì trong khoáng vật tại
thời điểm phân tích; (206Pb/204Pb)i, (207Pb/204Pb)ii,
(208Pb/204Pb)i - tỉ lệ đồng vị ban đầu (nguyên
sinh) của chì tại thời điểm thành tạo khoáng vật; 238U/204Pb,
235U/204Pb, 232Th/204Pb - tỉ lệ
đồng vị trong khoáng vật tại thời điểm phân tích; l1, l2,
l3 - các hằng số phân rã của 238U, 235U, 232Th
tương ứng; và t - thời gian sau khi khoáng vật đã tạo nên hệ khép kín
đối với U, Th, Pb và đối với mọi sản phẩm đồng vị con trung gian.
Các phương
trình (5.17) - (5.19) có thể dùng để định tuổi của các tổ hợp khoáng vật (hoặc
đá) theo phương pháp đẳng thời như đã trình bày ở trên. Trong trường hợp nếu
từ lúc kết tinh các khoáng vật nghiên cứu của hệ U-Th-Pb không bị phá huỷ cân
bằng (hay nói cách khác các khoáng vật tồn tại là hệ kín đối với U, Th, Pb) thì
các giá trị tuổi nhận được từ ba hệ phân rã riêng biệt sẽ phù hợp (concordant)
và là tuổi của khoáng vật. Tuy nhiên U, Th khá linh động khi bị biến chất hoặc
khi các đá bị phong hoá, vì thế việc áp dụng phương pháp đẳng thời đối với
các hệ U-Pb và Th-Pb bị hạn chế.
Ta đã biết 238U
và 235U cũng như 206Pb và 204Pb là những đồng
vị của cùng một nguyên tố, nên có hành vi như nhau trong các quá trình địa hoá
khác nhau. Điều này cho phép xác định tuổi phù hợp theo các cặp 238U/206Pb
và 235U/207Pb khi hệ đồng vị U-Th bị phá huỷ.
Dưới đây sẽ xem
xét hai phương pháp định tuổi phổ biến đối với hệ U-Pb: 1) phương pháp U-Pb
định tuổi theo Zircon; 2) phương pháp Pb-Pb định tuổi theo Pb trong đá; đồng
thời sẽ xem xét định tuổi mô hình cho quặng chì và protolith của các đá bazan
đại dương hiện đại.
Phương
pháp U-Pb định tuổi theo zircon
Phần đáng kể U,
Th và Pb phóng xạ sinh trong các đá magma và biến chất tham gia vào các khoáng
vật bền vững như zircon, badeleit, monazit, hiếm hơn trong apatit. Trong số
khoáng vật này thường dùng zircon để định tuổi. Do tính chất hoá tinh thể
zircon không chứa Pb nguyên sinh nên phương trình định tuổi theo zircon cũng
tương tự như ở phương pháp Re-Os được viết đơn giản:
(206Pb/238U)m = e
l1t -1 (5.20)
(207Pb/235U)m = e
l2 t -1 (5.21)
Do tỉ lệ 238U/235U
trong tự nhiên bằng 137,88, nên các phương trình (5.20) và (5.21) được viết
lại:
(207Pb/206Pb)m =
(1/137,88) x [(e l2t -1) / (e l1t -1)] (5.22)
Chú ý kí hiệu “m” (measure)
trong tỉ lệ đồng vị của các phương trình kể trên là trị số đo được; l1 và l2 là hằng số phân rã của 238U
và 235U.
Nếu hệ U-Pb trong zircon
không bị phá huỷ (trong hệ kín), thì cả 3 phương trình sẽ cho các giá trị tuổi
phù hợp (concordant). Có thể sử dụng hai phương trình (5.20 và (5.21) để tính
dãy tỉ lệ 206Pb/238U và 207Pb/235U
tương ứng các trị số t xác định. Đó là toạ độ của các điểm, đại diện cho
hệ U-Pb có các giá trị tuổi phù hợp và đồ thị thể hiện sự phụ thuộc 206Pb/238U
(tung độ) vào 207Pb/235U (hoành độ).
Vì thế các phương trình
(5.20) và (5.21) là các phương trình thông số của đường cong, được Wetherill G.
W. gọi là đường cong phù hợp (concordia). Đường cong này (Hình 5.3) được thiết
lập theo số liệu của Bảng 5.4
Tuy nhiên trong thực tế, xác định tuổi theo zircon thường không phù
hợp. Zircon lấy từ xâm nhập có thành phần khác nhau hoặc zircon của các phần
khác nhau (có đặc điểm khác biệt, như hình dạng, kích thước, màu sắc, khác
nhau) thuộc cùng một mẫu trên toạ độ 206Pb/238U - 207Pb/235U
tạo nên đường thẳng không phù hợp (disconcordia). Đường không phù hợp cắt đường
phù hợp tại hai điểm. Thông thường giá trị tuổi tại giao điểm trên được luận
giải là tuổi kết tinh của đá, còn giao điểm dưới phản ánh thời gian biến chất
của đá.
Bảng 5.4. Trị số để thiết
lập đường cong U-Pb phù hợp và tỉ lệ 207Pb/206Pb
Tỉ năm |
206Pb/238U |
207Pb/235U |
207Pb/206Pb |
0,0 |
0,0000 |
0,0000 |
0,04604 |
0,2 |
0,0315 |
0,2177 |
0,05012 |
0,4 |
0,0640 |
0,4828 |
0,05471 |
0,6 |
0,0975 |
0,8056 |
0,05992 |
0,8 |
0,1321 |
1,1987 |
0,06581 |
1,0 |
0,1678 |
1,6774 |
0,07250 |
1,2 |
0,2046 |
2,2603 |
0,08012 |
1,4 |
0,2426 |
2,9701 |
0,08879 |
1,6 |
0,2817 |
3,8344 |
0,09872 |
1,8 |
0,3221 |
4,8869 |
0,11000 |
2,0 |
0,3638 |
6,1685 |
0,12298 |
2,2 |
0,4067 |
7,7292 |
0,13783 |
2,4 |
0,4511 |
9,6296 |
0,15482 |
2,6 |
0,4968 |
11,9437 |
0,17436 |
2,8 |
0,5440 |
14,7617 |
0,19680 |
3,0 |
0,5926 |
18,1931 |
0,22266 |
3,2 |
0,6428 |
22,3716 |
0,25241 |
3,4 |
0,6946 |
27,4597 |
0,28672 |
3,6 |
0,7480 |
33,6556 |
0,32634 |
3,8 |
0,8030 |
41,2004 |
0,37212 |
4,0 |
0,8599 |
50,3878 |
0,42498 |
4,2 |
0,9185 |
61,5752 |
0,48623 |
4,4 |
0,9789 |
75,1984 |
0,55714 |
4,6 |
1,0413 |
91,7873 |
0,63930 |
Tuy nhiên không hiếm các đá magma (đặc biệt
granitoid) có nguồn gốc nóng chảy vỏ cổ chứa các hạt zircon cổ, hoặc tàn sót
trong các hạt zircon phát triển kế thừa sau. Trong trường hợp như thế, giao
điểm trên ghi nhận tuổi của nguồn vỏ, còn giao điểm dưới chỉ tuổi kết tinh của
các hạt zircon, tức tuổi kết tinh của đá chứa zircon. Zircon kế thừa là zircon
bị dung thể bắt cóc từ các đá cổ vây quanh.
Trong các đá
trầm tích (hoặc trầm tích biến chất), những hạt zircon bị bào tròn có thể cho
tuổi nguồn trầm tích (hoặc tuổi của đá nguyên thuỷ của đá biến chất).
Hiện nay, với kĩ
thuật tiên tiến, người ta sử dụng phương pháp SHRIMP (Sensitive High Resolution
Ion MicroProbe- Vi dò ion độ nhạy cao) để phân tích đồng vị U-Pb trên nhiều
điểm từ nhân ra ngoài rìa của các tinh thể zircon đơn lẻ, nhờ đó có thể khôi
phục lịch sử địa chất của những hạt zircon có cấu trúc phức tạp (xem ví dụ trên
Hình 5.3).
Cần chú ý, có
những cách giải thích khác cho đường không phù hợp, như có sự mất Pb liên tục
do khuyếch tán, hoặc do phong hoá hoá học lên tinh thể khoáng vật. Và giao điểm
dưới nằm trùng với gốc toạ độ, như vậy giao điểm dưới không có ý nghĩa địa
chất. Để khẳng định kết quả phân tích một cách chắc chắn, có thể sử dụng phương
pháp độc lập - phương pháp U-Pb định tuổi theo apatit hoặc sphen cùng nguồn.
Phân tích những khoáng vật này cho kết quả rơi hoặc vào chính giao điểm dưới,
hoặc kề cận với nó.
Đôi khi các
zircon từ các đá magma sắp dọc theo đường không phù hợp gần với giao điểm dưới.
Trong trường hợp này thường giải thích chúng là zircon kế thừa, các zircon này
trong magma nóng đã bị mất hoàn toàn Pb phóng xạ sinh đã được tích tụ ban đầu.
Để có những kết
quả chính xác phân tích đồng vị U-Pb theo zircon, cần lấy lượng mẫu đá sao cho
có thể lựa chọn 25-30 hạt zircon. Nhất thiết phải nghiên cứu thạch học, giã đãi
mẫu, tách zircon theo máy tách từ, trong dung dịch nặng và dưới kính hiển vi để
mô tả hình dạng, kích thước, màu sắc, dấu vết bào tròn, tính phân đới, v.v...
trước khi gửi đi phân tích. Đồng thời thông báo cho phòng phân tích các đặc
điểm sơ bộ của zircon.
Phương
pháp Pb-Pb định tuổi theo chì trong đá
Từ phương trình
(5.17) và (5.18) có thể viết lại, bằng cách chuyển các tỉ lệ đồng vị chì ban
đầu sang vế trái rồi lấy phương trình (5.18) chia cho (5.17), ta sẽ có phương
trình sau:
ta đã biết (238U/235U) =
137,88; từ đó suy ra:
(5.23)
Phương trình
(5.23) chỉ chứa các tỉ lệ đồng vị chì. Do đó nếu phân tích các đá cùng tuổi có
các tỉ lệ đồng vị chì ban đầu như nhau thì chúng tạo nên đường đẳng thời ở toạ
độ 207Pb/204Pb - 206Pb/204Pb. Tuổỉ
của chúng có thể được tính gần đúng theo độ nghiêng của đường đẳng thời.
Lần đầu tiên
phương pháp định tuổi theo Pb trong đá đã được áp dụng để xác định tuổi của các
thiên thạch cho giá trị 4,55 tỉ năm. Patterson S. đã giả thiết Trái đất và
thiên thạch có cùng một tuổi và đặc trưng có tỉ lệ đồng vị ban đầu như nhau,
thành phần trung bình chì của Trái đất phải phân bố trên đường do thiên thạch
tạo nên. Thực tế các trầm tích đại dương hiện đại nằm trên đường đẳng thời của
các thiên thạch có tuổi 4,55 triệu năm; điều đó đã khẳng định cho giả thuyết
này. Về sau đường đẳng thời của Trái đất được gọi là geochron (đường địa thời).
Định tuổi theo
chì trong đá đòi hỏi hệ đồng vị U-Pb đóng kín, điều này hiếm khi có được.Vì thế
phương pháp định tuổi theo chì của đá không được sử dụng rộng rãi trong địa
niên tuyệt đối của các đá thuộc Trái đất, ngoại trừ định tuổi cho các đá
carbonat, tuy vậy nó lại được dùng khá hiệu quả để định tuổi các thiên thạch.