ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT
MIOCEN-ĐỆ TỨ BÃI NGẦM PHÚC TÂN Ở VÙNG BIỂN
DKI VIỆT
THEO ĐỊA CHẤN
NÔNG PHÂN GIẢI CAO
TRỊNH
NGUYÊN TÍNH1, PHAN ĐỨC TUẤN3, NGUYỄN
BIỂU2, VŨ TRƯỜNG
SƠN1,
VŨ
BÁ DŨNG1, NGUYỄN
VĂN CỬ1
1 Trung tâm Địa chất và Khoáng sản biển,
2 Tổng hội Địa chất Việt
Tóm tắt: Việc xử lý và luận giải
địa chất 16 tuyến địa chấn nông phân giải
cao với 350 km tuyến cho thấy: a/ Bãi ngầm Phúc Tần có cấu trúc địa chất
Miocen-Đệ tứ khá phức tạp với đáy
đa thành phần, gồm
đá magma xâm nhập trước Miocen muộn, basalt Miocen
trung, trầm tích lục nguyên và basalt Miocen thượng; b/ Bãi hình thành trên nền basalt
Miocen thượng nhờ sự phát triển của san hô,
các sinh vật khác và sản phẩm phong hóa cơ học của
chúng từ Pliocen đến Holocen theo 6 chu kỳ dâng-hạ
mực nước biển đại dương; c/
Cột địa tầng có tuổi từ Miocen thượng đến Holocen có thể
phân chia thành 7 dãy theo dãy (sequence) địa tầng. Phần
lớn các dãy có đủ ba miền hệ thống: biển
tiến, biển mức cao và biển lùi. Lớp cuội
san hô lộ ra ở đáy biển hoặc chôn vùi dưới
trầm tích Đệ tứ dày 7-10 m nằm giữa mặt
vỏ phong hóa R4 và basalt-lục nguyên Pliocen khá quan trọng cho đối sánh
địa tầng Pliocen-Đệ tứ và tìm kiếm
khoáng sản rắn.
Vùng nghiên cứu có thể
chia ra 4 đới cấu trúc nhỏ: đới
san hô trung tâm, đới nâng ĐN, đới sụt TN và
đới TB hoạt hóa trong Đệ tứ.