MỘT SỐ THÔNG
TIN MỚI VỀ HỆ TẦNG SÔNG BA QUA KẾT QUẢ
ĐO VẼ BẢN ĐỒ ĐỊA CHẤT VÀ ĐIỀU
TRA KHOÁNG SẢN TỶ LỆ 1:50.000 NHÓM TỜ KRÔNG PA
TRẦN NGỌC KHAI, NGUYỄN HÙNG
CƯỜNG, NGUYỄN HUY DŨNG
Liên đoàn Bản đồ Địa
chất Miền Nam, TP Hồ Chí Minh.
Hệ tầng Sông Ba
được nhiều công tŕnh nghiên cứu, trong đó
đáng kể nhất là các công tŕnh sau.
Trong công tŕnh Đo
vẽ bản đồ địa chất 1:500.000 [6], hệ
tầng Sông Ba được Trịnh Dánh (1984) xác lập trên cơ sở mô
tả mặt cắt chuẩn dọc sông Ba từ cầu
Lệ Bắc đến Phú Túc với thành phần gồm:
cuội kết, sỏi kết chuyển lên cát kết, cát
bột kết, sét kết chứa hóa thạch thực
vật: Castanopis sp., Laurus sp., Dipterocarpus sp., Persea sp., ... theo tác giả
trên, có tuổi Miocen muộn.
Trong công tŕnh Đo
vẽ bản đồ địa chất 1:200.000 [7]
cũng đă xác nhận và thể hiện các trầm tích
Neogen trong vùng nghiên cứu vào hệ tầng Sông Ba (N1 sb), với thành phần:
cuội kết, sỏi kết, cát kết, than nâu chuyển
lên cát kết xen bột kết, sét kết chứa nhiều
di tích thực vật có tuổi Miocen.
Đến năm
1996, Lê Thị Nghinh và nnk. [4] đă mô tả mặt
cắt hệ tầng Sông Ba ở trũng Cheo Reo và Phú Túc
gồm 3 tập:
1) Hệ xen kẽ
cuội tảng kết, cuội kết đa khoáng với
các lớp mỏng cát sạn kết, cát kết arkos-grauwack
màu xám sáng. Dày 100-200 m.
2) Sự xen kẽ
dạng nhịp (10-20 nhịp) giữa cát sạn kết
chứa các thấu kính cuội kết mỏng với cát
kết, bột kết và sét kết màu xám sáng và xám lục
nhạt xen kẽ, nhiều nơi gặp sét than và các
vỉa than nâu mỏng. Dày 200-300 m.
- Hệ xen kẽ
giữa cát kết, bột sét kết và sét kết phân
lớp mỏng. Dày 40-60 m.
Kết
quả nghiên cứu trầm tích Neogen của nhóm tờ
Trên phạm vi nhóm
tờ, các thành tạo trầm tích Neogen phân bố chủ
yếu ở trũng Phú Túc và
đồng bằng Buôn Dôn Thiơl. Thành phần gồm:
cuội kết, cát kết, sét bột kết màu xám xanh, xám
nâu loang lổ vàng, sét giàu tảo Diatomeae, sét diatomit-trepel,
than nâu, sét kết tuf, cát bột kết tuf, sét kaolin,
chứa các di tích thực vật: vết in lá cây, xác
thực vật, bào tử phấn và tảo.
1. Đặc điểm địa chất
- thạch học
Mặt cắt
tổng hợp của hệ tầng gồm có 2 phần
như sau:
1.1. Phần dưới: Trầm tích thuộc phần
dưới của hệ tầng gặp tại lỗ
khoan LK1 (Enreca-1) ở Phú Cần (tọa độ VN2000: 145,87,99-24,81,53),
ở độ sâu 215-480 m [3]. Mặt cắt gồm 3
tập với các đặc điểm sau (từ
dưới lên):
-
Tập 1
(từ 412
đến 480 m): Cuội kết đa khoáng, chuyển lên
các lớp cát kết thạch anh, sét kết, bột kết
màu xám xanh, xám trắng, xám vàng xen kẽ nhau, chứa vật
chất hữu cơ hóa than (20-30%). Lớp cuội kết
phủ bất chỉnh hợp trên granit biotit-hornblend
của phức hệ Định Quán. Dày 68 m.
-
Tập 2 (từ 282 đến 412 m):
Bột kết, sét kết màu xám nâu, xám xanh, xám trắng, xám
đen xen các lớp mỏng cát kết, dăm kết màu xám
trắng, xám xanh và các vỉa than nâu (dày 0,1-2 m) hoặc
vật chất hữu cơ hóa than. Dày 130 m.
-
Tập 3 (từ 215 đến 282 m): Cát
kết màu xám xanh, xám trắng xen kẽ bột kết, sét
kết màu xám xanh, xám nâu, phân lớp dày, cắm dốc 10-15o.
Dày 67 m.
1.2. Phần trên: Trầm tích thuộc phần
trên của hệ tầng gặp trong các thung lũng xâm
thực và các lỗ khoan ở trũng Phú Túc, đồng
bằng Buôn Dôn Thiơl, gồm 2 tập với đặc
điểm sau (từ dưới lên):
+ Tập 1:
gồm 3 hệ lớp:
-
Hệ lớp 1: Chủ yếu gặp tại
các lỗ khoan LK1 (186-215 m), KT13 (53,2-55,7 m) và mặt cắt
chi tiết ở Buôn Tu. Thành phần gồm: cuội
kết, sạn kết chuyển lên cát kết xen cuội
kết hạt nhỏ màu xám trắng. Chiều dày thay
đổi từ 2 đến 28 m.
-
Hệ lớp 2: Chủ yếu gặp tại
các lỗ khoan KT12, KT13, KT15, LK1 và mặt cắt ở Buôn
Tu. Thành phần gồm: sét kết màu nâu giàu Diatomeae, sét
diatomit-trepel, bột kết màu xám xanh, xanh đen hoặc nâu
đen xen các vỉa than nâu dày 0,4-2,6m (LK1, KT13, K12234), đôi
chỗ có xen các lớp cát sạn kết. Các lớp sét
kết chứa nhiều Bào tử phấn hoa: Quercus sinensis, Qu. mongolica, Qu. rotundus,
Qu. gracilis, Lygodium sp.,
Lycopodium sp., Castanea sp., Castanopsis
sp., Carya sp., Anuliopsis sp., Taxodium
sp., Liquidambar sp., Salix sp., Hammamelis sp., Poaceae sp.,
Ginkgo sp., Magnolia sp., Michelia sp., Nuphar sp., Cystopteris
sp. và Tảo nước ngọt, có khoảng tuổi Neogen,
trong đó có vài mẫu được xác định
tuổi Miocen (theo Trần Hữu Dần, 2008). Chiều dày
của hệ lớp thay đổi từ 20 đến 46
m.
-
Hệ lớp 3: Cát sạn kết màu xám tro,
xám xanh xen các lớp cát bột kết tuf, sét bột kết
tuf, chứa Bào tử phấn hoa: Cystopteris sp., Duvalia sp., Leptochilus
sp., Schizaea sp., Alnus sp. và Carya aquatica thuộc môi trường nước
ngọt có tuổi Miocen? (theo Trần Hữu Dần, 2008).
Chiều dày thay đổi từ 9 đến 18 m.
+ Tập 2:
Gặp tại các mặt cắt
Buôn Hiang, Buôn Hiên, Buôn Tu,
KT12, KT13, LK1,…gồm: cuội
kết, cát sạn kết, cát kết, bột kết màu nâu
vàng, sét bột kaolin, sét kết xám xanh, xám nâu, loang lổ
tạo dạng nhịp từ hạt thô đến mịn
(10 nhịp), đôi nơi có xen kẹp lớp sét than nâu
đen, chứa nhiều vụn thực vật, vết in
lá cây thuộc phức hệ sinh thái rừng ẩm cận
nhiệt đới có khoảng tuổi Neogen: Persea sp., P. indica (Pliocen), Laurus
sp., Ficus sp. (Neogen), Salix elongata, Quercus lobbii, Ficus
beauveriei, Diospyros brachysepala (Miocen muộn) (theo Trịnh
Dánh và Trần Hữu Dần) cùng các dạng Bào tử
phấn hoa: Qu. sinensis, Qu.
mongolica, Quercus rotundus, Castonopsis sp., Polypodiaceae, Lygodium sp. và khá nhiều Tảo Dinoflagellata, ít Tảo thuộc môi
trường lục địa có tuổi Neogen (theo
Trần Hữu Dần, 2008). Chiều dày thay đổi
từ 80 đến 240 m.
2.
Đặc điểm biến dạng của trầm tích
Các đá của
hệ tầng phân bố kéo dài theo phương TB-ĐN
trong địa hào Đệ tam Sông Ba [8] phân lớp nghiêng
thoải, cắm chủ yếu về hướng TN, thế
nằm thay đổi 180-300Đ10-250, nhưng chủ
yếu trong khoảng 200-230Đ10-250. Một vài nơi
gặp đứt găy cắt qua hệ tầng với
mặt trượt cắm về hướng TB: 310Đ800
với cự ly dịch chuyển 0,7 m, hoặc
hướng đông 90Đ500; 100-120Đ10-150.
3. Khoáng sản
liên quan
Gồm sét kaolin, sét
giàu Diatomeae, sét diatomit-trepel, sét gạch ngói, than nâu. Ngoài ra, theo kết quả phân tích
nhiệt, roengen (KT12/8, KT12/9, KT12/14, KT13/32-33) trong các lớp
sét giàu Diatomeae, sét diatomit-trepel có
mặt khoáng zeolit (heilandit, orionit), tuy với hàm
lượng thấp (< 3%) nhưng là dấu hiệu
rất đáng quan tâm để điều tra khoáng zeolit có
nguồn gốc trầm tích.
4- Quan hệ địa tầng và cơ
sở định tuổi
Hệ tầng Sông Ba phủ không chỉnh hợp lên
đá gốc Mesozoi thuộc phức hệ Vân Canh, hệ
tầng Mang Yang và granit thuộc phức hệ Định
Quán. Về phía trên, bị các trầm tích Đệ tứ
và bazan hệ tầng Xuân Lộc (Q12 xl)
phủ trực tiếp lên. Trong phần trên của hệ
tầng có nhiều vết in lá cây có tuổi từ
Miocen đến Pliocen: Persea sp.
(Neogen), Persea indica
(Pliocen), Laurus sp., Ficus
sp. (Neogen), Salix elongata, Quercus lobbii, Ficus beauveriei, Diospyros
brachysepala (Miocen muộn) và các dạng Bào tử phấn
hoa đặc trưng cho môi trường lục
địa có khoảng tuổi Neogen. Từ những cơ
sở tài liệu thực tế và nhận định trên,
các trầm tích Neogen ở nhóm tờ Krông Pa được
xếp vào hệ tầng Sông Ba có tuổi Miocen (N1 sb).
Hệ tầng được phân chia theo chiều sâu
dựa vào lỗ khoan LK1 (Enreca-1) ở Phú Cần (tọa
độ VN2000: 145,87,99-24,81,53), ở độ sâu 215-480 m
[3]. Đồng thời trong quá tŕnh thi công đề án,
đă xác định là trong thành phần mặt cắt của
hệ tầng có mặt các vỉa diatomit-trepel, kaolin, tro tuf
núi lửa; đây là sự khác biệt so với các tài
liệu trước.
Các kết quả nêu trên đă góp phần khẳng
định thêm về thành phần vật chất của
hệ tầng Sông Ba là khá đa dạng và phân chia có cơ
sở hơn theo chiều sâu. Đồng thời làm rơ
hơn về tiền đề, dấu hiệu để
t́m kiếm phát hiện các khoáng sản tương tự
trong vùng. Điều cần lưu ư trong trũng Neogen Sông
Ba có liên quan với các đá sinh và đá chứa dầu khí
ở thềm lục địa miền Trung Việt Nam (?)
cần làm sáng tỏ thêm [3].
VĂN
LIỆU
1. Đỗ Văn Lĩnh, Trần
Ngọc Khai, 2005. Tính chất và cơ
chế hoạt động của đới đứt
găy Sông Ba (đoạn từ Cheo Reo đến Phú Túc) trong
Cenozoi. Tuyển tập BC HNKH
&CN lần thứ 9. ĐHBK
TP Hồ Chí Minh, trg 48-57.
2. Đỗ Văn Lĩnh, 2007. Đặc
điểm cấu trúc và hoạt động của phân
đoạn A Yun Pa - Phú Túc thuộc đới đứt
găy Sông Ba. TC Các khoa học
về TĐ, Hà Nội.
3. Lê Văn Hiền, H.I. Petersen, L.H.
Nielsen, 2005. Kết quả nghiên cứu địa hóa
giếng khoan Enreca-1 ở trũng Sông Ba: Một bằng
chứng của đá mẹ sinh dầu tuổi Miocen và ư
nghĩa của nó đối với các bể trầm tích
ở Việt Nam. Tuyển tập BC HNKH-CN 30 năm
Dầu khí VN, 1 : 380-386. Nxb KH&KT, Hà Nội.
4. Lê Thị Nghinh, Đào
Thị Miên, Phan Đông Pha, 1996. Đặc điểm trầm tích Kainozoi
đới đứt găy Sông Ba. Địa
chất Tài nguyên, 1 : 247-251, Nxb KH&KT, Hà Nội.
5. Nguyễn Xuân Bao (Chủ
biên), 2000. Kiến
tạo và sinh khoáng Nam Việt Nam.
Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.
6. Trần Đức Lương,
Nguyễn Xuân Bao, 1983. Bản đồ địa
chất Việt Nam tỷ lệ 1:500.000. Tổng cục Mỏ
- Địa chất. Hà
Nội.
7. Trần Tính (Chủ biên),
1994. Báo cáo Kết quả đo vẽ địa
chất và t́m kiếm khoáng sản nhóm tờ Kon Tum - Buôn Ma
Thuột tỷ lệ 1:200.000.
Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.
8. Trần Văn Trị, Nguyễn Đ́nh
Uy, Hoàng Hữu Quư, Lâm Thanh, 1985. Kiến
tạo Tây Nguyên và các vùng lân cận. Tuyển tập BC
HNKH-KT Địa chất VN lần 2, 2 : 170-184. Hà Nội.
Ngày nhận bài: 14/8/2009
Người biên tập: GS.TS Trần Văn Trị
(Tổng hội Địa chất Việt
Nam).