DẤU VẾT BỜ BIỂN CỔ PLEISTOCEN MUỘN PHẦN MUỘN BỊ CHÔN VÙI Ở ĐÁY
BIỂN NÔNG VEN BỜ BẮC TRUNG BỘ VÀ TIỀM NĂNG SA KHOÁNG LIÊN QUAN
LA THẾ
PHÚC1, VŨ TRƯỜNG SƠN2
1Bảo
tàng Địa chất, 6 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội
2Liên
đoàn Địa chất Biển, Trung Kính, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
Tóm tắt: Kết quả nghiên cứu địa chất - địa mạo đáy biển Bắc
Trung Bộ đã giúp phát hiện được dấu vết của các thế hệ bờ biển có tuổi từ
Pleistocen muộn đến Holocen ở ngay trên tầng mặt. Liên quan tới các bờ biển đều
có các cảnh quan và tổ hợp cộng sinh tướng trầm tích đặc trưng, gồm: địa hình
đê cát bên ngoài và địa hình vũng vịnh biển bên trong; các thành tạo cát sạn
bãi triều và đê cát ven bờ xen các thành tạo bùn sét đầm phá, vũng vịnh. Chôn
vùi dưới lớp phủ trầm tích Holocen ở đới biển nông ven bờ (độ sâu 0-20 m nước)
là các thành tạo trầm tích Pleistocen muộn. Bằng tổ hợp các phương pháp nghiên
cứu đã phát hiện được dấu vết bờ biển cổ tuổi Pleistocen muộn, phần muộn bị
chôn vùi dưới lớp trầm tích Holocen ở độ sâu 10-15 m nước biển ven bờ Bắc Trung
Bộ. Bài báo này giới thiệu kết quả nghiên cứu phát hiện dấu ấn của bờ biển cổ
tuổi Pleistocen muộn, phần muộn và tiềm năng sa khoáng liên quan bị chôn vùi ở
đáy biển nông Bắc Trung Bộ.
I. MỞ ĐẦU
Việc nghiên cứu và phát hiện các thế hệ bờ biển cổ trong kỷ Đệ tứ có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu địa chất nói chung, và tìm kiếm đánh
giá sa khoáng biển nói riêng. Trước hết, nó giúp các nhà địa chất tái lập được
lịch sử phát triển địa chất của thềm lục địa, sự dao động của mực nước biển,
hoàn cảnh cổ địa lý - tướng đá, phân chia và liên kết địa tầng Đệ tứ đới ven
biển và biển nông ven bờ cũng như thềm lục địa; đặc biệt là hoạch định kế hoạch
và thi công công tác tìm kiếm đánh giá sa khoáng. Địa chất, địa mạo, trầm tích
tầng mặt và sự dao động mực nước biển ở vịnh Bắc Bộ nói chung, và đáy biển Bắc
Trung Bộ (từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên Huế, Hình 1) nói riêng, đã được nhiều nhà
địa chất trong và ngoài nước nghiên cứu, trong đó phải kể đến các công trình
của các tác giả: Lưu Tỳ, Nguyễn Thế Thôn, Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Biểu, Trần
Nghi, Lê Đức An, Nguyễn Địch Dỹ, Đỗ Văn Tự, Đinh Văn Thuận, Trần Đức Thạnh, … .
Trên cơ sở khảo sát và lấy mẫu nghiên cứu, hầu hết các tác giả đều thống nhất:
sự dao động của mực nước biển mang tính chu kỳ, trong mỗi pha, biển tiến hoặc
lùi của mỗi chu kỳ xảy ra với tốc độ không đồng đều và không liên tục, tức là
có những lúc mực nước biển tạm thời “ngừng” dao động. Những lúc mực nước biển
tạm thời ngưng nghỉ một cách tương đối là lúc hình thành đường bờ biển với tổ
hợp cộng sinh các tướng trầm tích đặc trưng cho đới bờ biển. Trên bề mặt đáy
biển Bắc Trung Bộ (BTB) đã phát hiện dấu vết 3 đường bờ biển cổ có tuổi khác
nhau, từ Pleistocen muộn đến Holocen sớm-giữa, phân bố ở 3 độ sâu khác nhau
(100-110 m, 50-60 m và 25-30 m nước) [1,4,5,7]. Còn các bờ biển cổ bị chôn vùi
nơi đây đang là những ẩn số rất cần được làm rõ để phục vụ cho công tác nghiên
cứu địa chất và tìm kiếm đánh giá khoáng sản. Bằng tổ hợp các phương pháp
nghiên cứu, đã phát hiện được dấu vết bờ biển cổ tuổi Pleistocen muộn, phần
muộn (Q13b) bị chôn vùi dưới lớp trầm tích Holocen ở độ
sâu 10-15 m nước biển ven bờ BTB.
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU PHÁT HIỆN DẤU VẾT BỜ BIỂN CỔ PLEISTOCEN MUỘN PHẦN MUỘN BỊ CHÔN VÙI
Để phát hiện đường bờ biển
cổ bị chôn vùi ở đáy biển nông ven bờ BTB, các tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau: địa chấn nông độ phân giải cao, thành phần vật chất
trầm tích, tuổi trầm tích, môi trường thành tạo trầm tích.
Hình 1. Sơ đồ vị trí đới biển nông vùng Bắc Trung Bộ
Tỷ lệ 1:8.500.000
1. Kết quả nghiên cứu
địa chấn nông độ phân giải cao
Phương pháp nghiên cứu địa chấn nông độ phân giải cao nhằm phát hiện và xác định các đá gốc, đứt gãy, các
tướng trầm tích, các “bẫy” sa khoáng, thành phần thạch học trầm tích, phân chia
chi tiết các tầng trầm tích Đệ tứ theo đặc điểm sóng địa chấn phản xạ. Các
“bẫy” sa khoáng chôn vùi dưới đáy biển BTB được xác định gồm các thành tạo
eluvi - đeluvi trên đá gốc giàu khoáng vật nặng, các thành tạo aluvi và bờ biển
trong khu vực phân bố đá gốc giàu khoáng vật nặng. Theo Evans (1995) có nhiều
kiểu phản xạ và ranh giới phản xạ; mỗi kiểu đặc trưng cho thành phần thạch học,
nguồn gốc (tướng) thành tạo và động lực môi trường trầm tích.
Trên cơ sở phân tích và luận giải hàng nghìn km tuyến địa chấn nông độ
phân giải cao đới biển nông ven bờ (độ sâu 0-30 m nước) ở BTB đã phát hiện dấu
vết bờ biển cổ có tuổi Pleistocen muộn, phần muộn (Q13b)
(Hình 2). Dấu hiệu để nhận biết bờ biển trên các băng địa chấn nông độ phân
giải cao là các kiểu phản xạ xiên chéo - xigma tại nơi vát nhọn của các trục
đồng pha song song liên tục áp đáy, phản ánh trầm tích cát bãi triều. Các dấu
hiệu này có thể nhìn thấy khá rõ trên các băng địa chấn theo phương vuông góc
với bờ biển ở Quảng Bình, tiêu biểu là mặt cắt địa chấn tuyến T.93-36 (Hình 2).
Trong khi đó, ở các băng địa chấn vùng Nga Sơn (Thanh Hoá) đến Đèo Ngang (Hà
Tĩnh) chỉ nhận thấy chúng một cách mờ nhạt, như ở mặt cắt địa chấn tuyến
T.94-18 (Hình 3); còn ở đáy biển vùng Thừa Thiên Huế hầu như không nhận thấy
(Hình 4). Sở dĩ có sự khác biệt về mức độ nhận biết dấu hiệu, vị trí phân bố
các đường bờ biển cổ trên các băng địa chấn nông độ phân giải cao là do yếu tố
tân kiến tạo chi phối.
Theo các văn liệu (Phan Trung Điền, 2000; Nguyễn Biểu, 2001,…), cấu trúc
Kainozoi biển nông BTB đã phát triển kế thừa trên các cấu trúc cổ và được chia
thành hai vùng có đặc điểm hoạt động kiến tạo khác nhau, lấy đới nâng Anh Vũ
(Đèo Ngang) làm ranh giới: vùng kiến tạo nâng được gọi là thềm hay cấu trúc đơn
nghiêng Thanh-Nghệ-Tĩnh, vùng kiến tạo sụt lún phân dị được gọi là phụ bể Huế
hay phụ bể Bình-Trị-Thiên. Mức độ bảo tồn của các bờ biển cổ phụ thuộc vào mức
độ hoạt động tân kiến tạo. Tại các đới sụt tương đối, trầm tích chủ yếu là hạt
mịn (bột-sét) và có bề dày lớn hơn, như ở đáy biển Quảng Bình, bờ biển cổ sau
khi thành tạo được bảo tồn tốt nên thể hiện rõ trên băng địa chấn (Hình 2). Tại
các đới nâng tương đối như vùng Thanh Hoá - Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, trầm tích
chủ yếu là hạt thô hơn (cát, cát sạn sỏi lẫn cuội), bờ biển cổ sau khi được
thành tạo thường bị xáo trộn, xóa nhòa bởi các quá trình địa động lực sau đó,
cho nên dấu hiệu bờ biển cổ thể hiện trên băng địa chấn mờ nhạt hơn. Tài liệu
về địa chấn - địa tầng cũng như chiều dày trầm tích Đệ tứ trên các băng địa
chấn đã phản ánh đặc điểm cấu trúc này.
Vị trí phân bố bờ biển cổ tuổi Q13b theo độ sâu hiện tại cũng rất khác
nhau. Ở đáy biển Quảng Bình, bờ biển cổ Q13b phân bố ở độ
sâu 35-40 m nước và bị phủ bởi lớp trầm tích Holocen dày khoảng 30 m (Hình 2).
Ở đáy biển Hà Tĩnh, bờ biển cổ này phân bố ở độ sâu 10-15 m nước và bị phủ bởi
lớp trầm tích Holocen dày khoảng 10-20 m. Ở đáy biển Thừa Thiên Huế, bờ biển cổ
này phân bố ở độ sâu 10-15 m nước gần sát đáy biển, đôi chỗ có thể lộ ra trên
bề mặt đáy biển. Tại nơi phân bố của bờ biển cổ Q13b ở
đáy biển Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế đã tiến hành khảo sát lấy mẫu chi tiết tầng
mặt và khoan.
2. Kết quả nghiên cứu thành phần vật chất và tuổi trầm tích
Kết quả phân tích và luận giải các băng địa chấn nông độ phân giải cao
vùng nghiên cứu đã được các tài liệu lỗ khoan ven bờ, bãi triều và đáy biển
kiểm chứng (Hình 5). Khoan trên bờ và bãi triều đã được tiến hành trong khi thi
công các phương án điều tra cơ bản về địa chất khoáng sản của các Liên đoàn Bản
đồ Địa chất và Liên đoàn Địa chất Biển. Khoan trên biển đã được tiến hành bởi
công ty TIMAH trong quá trình thi công Đề án hợp tác tìm kiếm đánh giá sa
khoáng (quặng) thiếc biển nông ven bờ Việt
a. Về địa tầng: đa số các lỗ
khoan đều bắt gặp 4-5 tầng trầm tích ngăn cách nhau bởi 4 bề mặt phản xạ địa
chấn, tương ứng với 4 bề mặt laterit hoá, đã gặp được ở hầu hết các lỗ khoan
(như lỗ khoan KB.1, Hình 5).
b. Về thành phần thạch học
trầm tích:
+ Theo chiều sâu, thành phần thạch học của 3 tầng trầm tích phía trên có
đặc điểm phân bố như sau:
- Tầng thứ nhất được giới
hạn bởi bề mặt phản xạ R0-R1 có chiều dày dao động từ 1
đến 22 m tuỳ theo vị trí lỗ khoan. Thành phần gồm: phần trên là bột sét, sét
màu xám, xám nâu, tiếp xuống là bột cát - cát bột xám; kết quả phân tích cổ
sinh cho tuổi Holocen muộn (Q23); phần dưới là bột sét -
sét dẻo màu xám, xám xanh, đôi nơi là bột sét - sét màu xám, xám đen giàu mùn
thực vật; rồi chuyển dần sang cát - cát sạn màu xám nhạt, xám trắng. Tuổi trầm
tích được xác định theo phân tích vi cổ sinh, địa chấn địa tầng và C14
(7.650 ± 50 năm) là Holocen sớm-giữa (Q21-2)[2].
- Tầng trầm tích thứ hai
được giới hạn bởi bề mặt R1-R2 có chiều dầy dao động từ 5
đến 25 m tuỳ theo vị trí lỗ khoan. Thành phần chủ yếu gồm sét bột, bột sét, bột
cát màu xám, xám nhạt bị laterit hóa cho màu sắc loang lổ nâu vàng, nâu đỏ; đôi
nơi là cát màu xám, xám vàng, xám trắng có độ mài tròn khá tốt, giàu khoáng vật
nặng, hoặc bột sét, sét bột màu xám, xám đen rất giàu mùn thực vật. Chuyển tiếp
xuống dưới là bột cát, cát bột màu xám trắng, xám vàng, dưới cùng là cát sạn
lẫn sét màu xám trắng, xám phớt xanh, đôi khi xám vàng lẫn ít kết vón laterit.
Tuổi trầm tích được xác định theo phân tích vi cổ sinh, địa chấn địa tầng và C14
(29.050 đến 31.150 ± 50 năm) là Pleistocen
muộn, phần muộn (Q13b) [2].
- Tầng trầm tích thứ ba được
giới hạn bởi bề mặt R2-R3 có chiều dầy dao động từ 5 đến
18 m tuỳ theo vị trí lỗ khoan. Thành phần chủ yếu gồm sét, sét bột mịn dẻo bị
phong hoá laterit cho màu sắc loang lổ xám nâu, xám trắng, xám vàng, nâu vàng,
nâu đỏ; chuyển xuống dưới là bột cát, cát, cát sạn lẫn bột sét màu xám vàng,
vàng, xám sáng; dưới cùng là cuội sạn cát lẫn sét màu xám nhạt, xám vàng chọn
lọc kém. Tuổi trầm tích được xác định là Pleistocen muộn, phần sớm (Q13a)
theo kết quả phân tích vi cổ sinh và địa chấn địa tầng (Liên đoàn Địa chất
Biển).
+ Theo diện rộng, phân tích
thành phần trầm tích ở tầng trầm tích thứ 2 (tuổi Q13b)
với cùng mức độ sâu trong các lỗ khoan nêu trên cho thấy hiện tượng khá lý thú:
đó là các thành tạo cát màu xám, xám vàng, xám trắng có độ mài tròn - chọn lọc
khá tốt và khá giàu khoáng vật nặng, cộng sinh với các thành tạo bột cát, bột
sét màu xám, xám đen rất giàu mùn thực vật. Hàng loạt các lỗ khoan ở đáy biển
Hà Tĩnh đều bắt gặp lớp cát màu xám vàng, xám, xám trắng có độ mài tròn, chọn
lọc khá tốt và khá giàu khoáng vật nặng trong tầng trầm tích tuổi Q13b,
như các lỗ khoan: KB.2 ở độ sâu 11-15 m, KB.3 ở độ sâu 12-16 m, KB.15: 12-17 m,
KB.16: 11-15 m, K.24: 13-15 m, KB.41: 17-19 m, KB.56: 16-18 m, …. Các thành tạo
cát biển ở đây có độ mài tròn, chọn lọc khá đến tốt và có độ tập trung khoáng
vật nặng với hàm lượng khá cao, phản ánh môi trường thành tạo có năng lượng cao
và ổn định; điều đó chỉ có thể tương ứng với môi trường của đới bờ biển.
Bên cạnh đó, ở một số lỗ
khoan bắt gặp tầng trầm tích thứ 2 (tuổi Q13b) có chứa lớp
trầm tích cát hạt mịn lẫn bột-sét xám chuyển tiếp xuống sét dẻo màu xám sẫm,
xám đen giàu mùn thực vật. Điển hình là các lỗ khoan: KB.1, tầng trầm tích tuổi
Q13b phân bố ở khoảng độ sâu 16-27 m, trong đó có lớp cát
hạt mịn màu xám nhạt, xám lẫn bột sét xám đen ở độ sâu 21-22 m, tiếp xuống độ
sâu 22-24 m là lớp sét dẻo màu xám sẫm, xám đen giàu mùn thực vật và vụn thực
vật hoá than; KB.12, ở đó gặp lớp bột sét màu xám, xám đen giàu mùn thực vật,
vụn thực vật hoá than. Ở độ sâu 14-16 m; trong KB.22 gặp lớp bột sét màu xám,
xám đen giàu mùn thực vật, vụn thực vật hoá than ở độ sâu 21-23 m. Các thành
tạo trầm tích hạt mịn giàu mùn thực vật và vụn thực hoá than đã phản ánh môi
trường trầm tích khá yên tĩnh, có thể tương ứng với môi trường đầm phá, vũng
vịnh.
Điều đáng chú ý trong các
thành tạo trầm tích nêu trên là: cát có độ mài tròn, chọn lọc khá tốt, có độ
tập trung khoáng vật nặng cao hơn hẳn so với những vị trí khác cùng địa tầng
thành tạo; và trong trầm tích cát bột màu xám, xám đen (chuyển tiếp xuống dưới
là bột sét, sét màu xám đen giàu mùn thực vật) rất giàu kết hạch siđerit
(khoáng vật chỉ thị cho môi trường thành tạo là vũng vịnh biển, Hình 7). Các
kết quả phân tích chuyên sâu về các tham số trầm tích (Md, So, Sk, Ek, Ro, C)
và môi trường thành tạo trầm tích (pH, Eh, Fe+2, Fe+3, Chc,
Kt: anion-cation trao đổi, hàm lượng carbonat, thành phần khoáng vật và cổ
sinh…) đã chỉ ra: các thành tạo cát có độ mài tròn chọn lọc khá tốt giàu khoáng
vật nặng nêu trên là các thành tạo cát bãi triều, đê cát ven bờ biển cổ; còn
các thành tạo trầm tích màu xám, xám đen giàu vật chất hữu cơ là các trầm tích
vũng vịnh biển. Đây là biểu hiện toàn cảnh bức tranh phân bố trầm tích của đới
bờ biển cổ, giống như cảnh quan đặc trưng đới bờ biển hiện nay (nhưng có quy mô
nhỏ hơn) ở vùng Quảng Trị - Thừa Thiên Huế, bao gồm: các thành tạo đầm phá,
vũng vịnh biển ở bên trong (phá Tam Giang, đầm Thanh Loan, đầm Hà Trung, vụng
Cầu Hai), tiếp theo ra phía biển là đê cát bờ biển và các bãi triều, ra xa hơn
một chút là các đê cát ngầm ven bờ biển.
Trên cơ sở tổng hợp các kết quả nghiên cứu hiện nay có thể phác
họa quá trình dao động mực nước biển trong thời kỳ Pleistocen muộn, phần muộn
như sau: sau khi biển thoái cực đại vào cuối Pleistocen muộn, phần sớm ở độ sâu
200-300 m nước, vịnh Bắc Bộ lúc này trở thành lục địa, các thành tạo trầm tích
Pleistocen muộn, phần sớm bị phơi lên bề mặt và phong hoá laterit cho màu sắc
loang lổ, tạo bề mặt phản xạ R2 trên các mặt cắt địa chấn nông. Vào
đầu Pleistocen muộn, phần muộn, biển lại dâng lên và tiến sâu vào lục địa. Quá
trình biển tiến không liên tục, vào đến vùng nghiên cứu ở độ sâu khoảng 10-15 m
nước hiện nay, biển tạm thời dừng, tổ hợp cộng sinh tướng trầm tích đặc trưng
cho cảnh quan bờ biển như nêu trên được hình thành. Sau thời gian tạm dừng này,
biển lại tiếp tục tiến sâu vào lục địa. Biển tiến cực đại Pleistocen muộn, phần
muộn đã tạo thành thềm biển ở độ cao 10-17 m [1, 6, 8, 9], khi đó toàn bộ bờ
biển vừa được thành tạo bị chìm sâu dưới đáy biển vài chục mét nước và trên đáy
biển vùng nghiên cứu được thành tạo lớp trầm tích biển tiến hạt mịn (bột sét,
sét) phủ lên. Sau đó, biển lại rút dần ra xa, đạt cực đại vào cuối Pleistocen
muộn, phần muộn ở độ sâu 100 -120 m hiện nay [5, 6, 9, 11], lúc này toàn vịnh
Bắc Bộ lại trở thành lục địa, quá trình phong hoá laterit tập trầm tích biển
tiến Pleistocen muộn, phần muộn diễn ra một cách khá triết để; bề mặt phản xạ R1
được thành tạo và xuất hiện hầu hết trên các băng địa chấn nông độ phân
giải cao cũng như các lỗ khoan ven biển và đáy biển ven bờ vịnh Bắc Bộ. Bề mặt
phong hoá này còn lộ ra trên đáy biển vịnh Bắc Bộ ở độ sâu >25 m nước
(Nguyễn Biểu, La Thế Phúc và nnk, 1998).
3. Tiềm năng sa khoáng liên quan tới bờ biển
cổ Pleistocen muộn, phần muộn.
Để hình thành sa khoáng biển cần phải có hai điều kiện cần và đủ. Điều
kiện “cần” là phải có nguồn cung cấp khoáng vật nặng cho sa khoáng. Điều kiện
“đủ” là phải có môi trường thuận lợi cho tích tụ sa khoáng. Nguồn cung cấp
khoáng vật nặng cho sa khoáng biển BTB được xác định là các đá gốc giàu khoáng
vật nặng phân bố ở đường bờ, đáy biển và đới lục địa ven biển, bao gồm đá magma
của các phức hệ Mường Lát, Trường Sơn, Sông Mã,
Phia Bioc, Hải Vân, Bản Muồng, Bà Nà; đá phun trào của các hệ tầng Cẩm
Thuỷ, Đồng Trầu, Mường Hinh; và đá biến chất của các hệ tầng Sông Mã, Sông
Cả…[3]. Môi trường thuận lợi cho tích tụ
sa khoáng ở đáy biển BTB là các bờ biển (bãi triều, đê cát ven bờ) tại các khu
vực có hoạt động kiến tạo nâng tương đối như Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế (Nguyễn Biểu và nnk, 1997, 2000); trong đó đáy biển Hà Tĩnh và
Thừa Thiên Huế là hai vùng thoả mãn nhất về điều kiện hình thành sa khoáng và
rất có triển vọng về sa khoáng (trong đó có cassiterit), nên đã được Công ty TIMAH chọn để thiết kế và thi công khoan tìm
kiếm.
Kết quả tìm kiếm trọng sa qua các lỗ khoan do Công ty TIMAH thi công ở đáy
biển ven bờ BTB cho thấy sa khoáng liên quan tới bờ biển cổ Pleistocen muộn,
phần muộn ở đáy biển nông ven bờ rất có triển vọng. Mục tiêu của Công ty TIMAH
là tìm kiếm thiếc sa khoáng, cho nên các mẫu lỗ khoan được rửa và đãi trọng sa
bằng máng nón ngay trên tàu khoan. Trong quá trình đãi đã mất đi một lượng khá
lớn các khoáng vật quặng Ti-Zr-TR. Thực tế phần thải ra sau khi đãi của Công ty
TIMAH đã được đãi kiểm tra và xác định lượng khoáng vật nặng mất đi khoảng
20-35 %. Tuy bị thất thoát khoáng vật nặng, nhưng kết quả phân tích trọng sa
trong nhiều lỗ khoan vẫn cho hàm lượng khoáng vật nặng khá cao, nhiều mẫu có
hàm lượng trên 10 kg/m3 (Bảng 1). Dựa trên mạng lưới khoan, tài liệu
địa chấn và kết quả phân tích trọng sa mẫu lỗ khoan ta có thể tính tài nguyên
dự báo liên quan tới bờ biển cổ tuổi Q13b bị chôn vùi ở
đáy biển Hà Tĩnh là khoảng 200.000 tấn quặng tổng.
Bảng 1. Các mẫu khoan ở độ sâu 10-15 m nước đáy biển Hà Tĩnh
có hàm lượng khoáng vật quặng Ti-Zr-TR lớn hơn 5 kg/m3
STT |
Số
hiệu lỗ khoan |
Độ sâu
mẫu (m) |
Hàm
lượng tổng khoáng vật nặng (g/m3) |
1 |
KB.02 |
11,30 - 13,30 |
10014 |
2 |
KB.02 |
13,30 - 15,30 |
10271 |
3 |
KB.03 |
14,20 - 16,20 |
8198 |
4 |
KB.15 |
11,70 - 13,70 |
16806 |
5 |
KB.15 |
13,70 - 14,80 |
6000 |
6 |
KB.16 |
10,50 - 12,50 |
5774 |
7 |
KB.16 |
15,10 - 16,50 |
10712 |
8 |
KB.17 |
14,60 - 15,20 |
12103 |
9 |
KB.18 |
19,10 - 19,50 |
11715 |
10 |
KB.24 |
13,20 - 15,20 |
9108 |
11 |
KB.25 |
16,20 - 16,60 |
13053 |
12 |
KB.26 |
9,90 - 11,60 |
13295 |
13 |
KB.46 |
10,70 - 11,60 |
10224 |
14 |
KB.47 |
13,00 - 15,00 |
6561 |
15 |
KB.56 |
16,30 - 18,10 |
5043 |
Trên cơ sở tổng hợp các tài liệu, đáy biển ven bờ Quảng Bình nằm trong vùng sụt lún
kiến tạo hiện đại, trầm tích hạt mịn là chủ yếu, ít có tiềm năng cho sa khoáng.
Đáy biển nông ven bờ Thừa Thiên Huế, nằm trên gờ nâng, các thành tạo trầm tích
Pleistocen muộn, phần muộn phân bố gần sát bề mặt đáy biển ở độ sâu >15 m
nước; và đê cát ngầm nổi lên trên đáy biển (Hình 3) có thể là tàn dư của bờ
biển cổ ở giai đoạn này (?). Dọc theo đê cát ngầm này đã phát hiện được nhiều
điểm có hàm lượng khoáng vật quặng Ti-Zr cao >5 kg/m3, trong đó
có điểm đạt hàm lượng công nghiệp (T.93-82a, ilmenit 16.482 g/m3,
zircon 2.741 g/m3, rutil + anatas 2.685 g/m3, monazit +
xenotim 791 g/m3). Một số lỗ khoan ở độ sâu 10-15 m nước cũng cho
kết quả hàm lượng khoáng vật nặng khá cao ngay trên tầng nông (lỗ khoan KB.61,
mẫu lõi khoan lấy ở độ sâu 3,2-5,2 m có hàm lượng 6,65 kg/m3; lỗ
khoan KB.66, mẫu lõi khoan ở độ sâu 3,5-5,3 m có hàm lượng 7,32 kg/m3).
Tài nguyên dự báo liên quan đạt khoảng 300.000 tấn quặng tổng.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.
Đới biển nông ven bờ BTB ở độ sâu 10-15 m nước có dấu vết tồn tại của bờ biển
cổ tuổi Q13b. Vị trí phân bố của nó rất khác nhau, phụ
thuộc vào hoạt động kiến tạo từng khu vực. Ở những nơi có hoạt động tân kiến
tạo nâng tương đối mạnh hơn, bờ biển cổ Q13b bị chôn vùi
dưới lớp phủ Holocen mỏng hơn và sa khoáng liên quan có tiềm năng lớn hơn.
2.
Cần tiếp tục triển khai các phương pháp phân tích, nghiên cứu chuyên sâu hơn về
địa chấn nông độ phân giải cao, cổ địa mạo, trầm tích… để xác định các thế hệ
bờ biển cổ phục vụ cho tìm kiếm đánh giá sa khoáng biển.
3. Công tác tìm kiếm sa khoáng biển ở BTB nên
tập trung vào các bờ biển cổ kể cả trên dải đất liền ven biển và dưới đáy biển
các khu vực từ Thanh Hoá - Hà Tĩnh, Vĩnh Linh - Thừa Thiên Huế.
Công trình nghiên cứu này được hoàn thành với sự
hỗ trợ của Đề tài NCCB mã số 7.171.06.
VĂN
LIỆU
1. Đinh Văn Thuận, Nguyễn Địch Dỹ, Đỗ Văn Tự, Mai
Thanh Tân, 1996. Vấn đề dao động
mực nước đại dương với các đợt biển tiến - biển lùi trong kỷ Đệ tứ ở Việt
2. La Thế Phúc, 2002. Đặc điểm và lịch sử phát
triển các thành tạo trầm tích Đệ tứ đới biển Nông vùng BTB Việt
3. La Thế Phúc, Đỗ Thị Hoà Lan, Đỗ Vân
Thanh, 1996. Nguồn cung cấp quặng sa
khoáng biển ven bờ (0-50 m nước) miền Trung Việt
4. Lưu Tỳ, 1982. Vài nét về địa mạo đáy vịnh Bắc Bộ. Địa chất, 155 : 1-10. Hà Nội.
5. Lưu Tỳ,
Nguyễn Thế Tiệp, Nguyễn Tứ Dần, Hứa Chiến Thắng, 1983. Những dấu vết về đường bờ biển cổ ở thềm lục địa
Việt
6. Nguyễn Địch Dỹ, 1979. Ranh giới giữa Pleistocen và Holocen. Những phát
hiện mới về KCH năm 1979, tr.
36-38. Viện KC, Hà Nội.
7. Nguyễn
Thế Tiệp, 1989. Lịch sử phát triển
các mực biển cổ ở Việt
8. Trần
Nghi, 1996. Tiến hoá thành hệ cát
ven biển miền Trung trong mối tương tác với sự dao động mực nước biển trong Đệ
tứ. Công trình NCĐC ĐVL biển, II :
130-138. Viện HDH, Hà Nội.
9. Trần
Nghi, 2005. Đặc điểm tướng đá - cổ
địa lý và lịch sử phát triển địa chất Pliocen - Đệ tứ thềm lục địa Đông Nam
Việt