HIỂM HỌA CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU
ĐỐI VỚI VIỆT
TRẦN ĐỨC
LƯƠNG
Tóm
tắt: Hiểm họa biến đổi khí hậu toàn cầu đã được Liên hiệp quốc quan
tâm, thể hiện ở việc đưa ra Nghị định thư Kyoto (1997) nhằm giảm khí thải gây ra
hiệu ứng nhà kính, đẩy nhanh tốc độ nóng lên của khí hậu, mà nguyên thủ 165
nước, trong đó có Việt Nam, đã phê chuẩn. Hiện tượng lạnh đi và nóng lên của khí
hậu Trái đất dẫn đến sự hình thành các thời kỳ băng hà và gian băng trong lịch
sử Trái đất kỷ Đệ tứ, đã được các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam ghi
nhận với nhiều bằng chứng cụ thể. Nếu con người không hạn chế các tác động xấu
đến môi trường, không quan tâm nghiên cứu nhằm đề ra các biện pháp phòng tránh
hữu hiệu cho dân tộc mình, thì hệ lụy có thể nói là khôn lường.
Trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang trải qua các biến động
bất thường của khí hậu toàn cầu. Trên bề mặt Trái đất, khí quyển và thủy quyển không ngừng nóng lên
làm xáo động môi trường sinh thái, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy với đời sống
loài người.
Các công trình nghiên cứu quy mô toàn cầu về hiện
tượng này đã được các nhà khoa học ở những trung tâm nổi tiếng trên thế giới
tiến hành từ đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX. Hội nghị quốc tế do Liên hiệp quốc
triệu tập tại
Trong khung cảnh chung của thế giới và Việt
I. HIỆN TƯỢNG VÀ BẢN CHẤT TĂNG NHIỆT ĐỘ BỀ MẶT
TRÁI ĐẤT
Các báo cáo của IPCC và nhiều trung tâm nghiên cứu có
uy tín hàng đầu trên thế giới công bố trong thời gian gần đây cung cấp cho chúng
ta nhiều thông tin và dự báo quan trọng. Theo đó, nhiệt độ trung bình
trên bề mặt địa cầu ấm lên gần 1°C trong vòng 80 năm (từ 1920 đến 2005) và tăng
rất nhanh trong khoảng 25 năm nay (từ 1980 đến 2005). Mới đây, ông Mark Lowcok,
quan chức của Bộ Phát triển Quốc tế Anh đã đến thăm Việt Nam và có buổi thuyết
trình về “Báo cáo Stern” do các nhà khoa học Anh xây dựng, được chính phủ
Anh công bố về vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu. Báo cáo cho rằng nếu không thực
hiện được chương trình hành động giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính theo Nghị
định thư Kyoto, đến năm 2035 nhiệt độ bề mặt địa cầu sẽ tăng thêm 2°C. Về dài hạn, có hơn 50% khả năng nhiệt độ tăng thêm 5°C.
Hiện tại, Trái đất đang từng ngày từng giờ nóng lên
với tốc độ như vậy với chiều hướng có thể còn nhanh hơn nữa. Vậy, nguyên
nhân nào đã gây ra hiện tượng vỏ Trái đất ấm lên ?
Dưới đây tổng hợp những kiến giải chính rút ra từ các công
trình nghiên cứu và kết quả thảo luận ở các hội nghị quốc tế.
Loại ý kiến thứ nhất được đại đa số các nhà khoa học nhất trí, đó
là việc tăng hàm lượng khí CO2 và các loại khí thải tạo hiệu ứng nhà
kính do hoạt động con người gây ra trong bầu khí quyển Trái đất. Nguyên nhân này
chiếm 90, thậm chí 99% mức gia tăng của nhiệt độ bề mặt Trái đất hiện đang được
báo động. Rõ ràng mối liên quan giữa quá trình gia tăng hàm lượng CO2 và các khí
thải gây hiệu ứng nhà kính do con người gây ra với sự gia tăng nhiệt độ bề mặt
Trái đất đã được minh chứng qua các số liệu mấy thế kỷ và nhất là trong vài thập
kỷ gần đây. Nhiệt độ bề mặt Trái đất có được là nhờ hấp thụ
nhiệt từ Mặt trời và nhận dòng nhiệt của chính mình tỏa ra từ bên trong lòng
đất. Sự có mặt của một hàm lượng khí CO2 cần thiết trong bầu khí quyển vốn là tấm áo giáp
ngăn chặn bức xạ nhiệt (bức xạ hồng ngoại) từ Trái đất thoát vào vũ trụ mênh
mông lạnh lẽo.
Thiếu nó thì mặt đất sẽ không có được một nhiệt độ điều hòa
cho sự sinh sôi phát triển sự sống. Các công trình nghiên cứu áp dụng công nghệ hiện đại cho chúng ta
biết suốt thiên niên kỷ trước khi có cuộc cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí
CO2 trong khí
quyển dao động ở mức 280 phần triệu (ppm). Tuy nhiên,
tính từ đầu thế kỷ XIX đến nay hàm lượng đó đã tăng liên tục đến 360 ppm.
Số liệu quan trắc trong 4 thập kỷ gần đây cho thấy, cứ mỗi thập kỷ hàm lượng CO2 trong khí quyển lại tăng 4%. Nói cách khác, hiệu
ứng nhà kính do khí CO2 gây ra là quá mức cần thiết, gây tăng nhanh
nhiệt độ bề mặt địa cầu kéo theo nhiều hệ lụy như đã
nêu trên. Tôi cho rằng những cứ liệu và luận giải đã được nêu
ra là đầy sức thuyết phục. Điều đáng tiếc là cho đến nay, Hoa Kỳ là nước
xả khí thải gây hiệu ứng nhà kính nhiều nhất vào khí quyển (trên 30% tổng khí thải
công nghiệp) vẫn chưa phê chuẩn Nghị định thư Kyoto.
Loại ý kiến thứ hai tuy thừa nhận vấn đề gia tăng nhiệt độ do
hiệu ứng nhà kính, song cho rằng cần nhấn mạnh hơn đến chu
kỳ nóng lên của Trái đất do hoạt động nội tại. Hiện tượng nhiệt độ bề mặt Trái
đất nóng lên và lạnh đi vốn là hiện tượng tự nhiên xảy ra có tính chu kỳ trong lịch sử hình thành và phát triển của Trái đất.
Không phải chỉ bây giờ, lịch sử Trái đất hàng triệu triệu năm đã trải qua nhiều
lần nóng lên rồi lại lạnh đi kéo theo những biến động
to lớn trong đời sống sinh vật trên Trái đất, làm thay đổi cả diện mạo địa hình
lục địa và đại dương. Tính từ 1,6 triệu năm đến nay đã
có 5-6 chu kỳ biến động lớn. Đó là các thời kỳ băng hà kéo theo mực nước biển hạ thấp (biển lùi) và các thời kỳ gian
băng (băng tan) kéo theo mực nước biển dâng cao (biển tiến). Vào các thời kỳ
băng hà, nhiệt độ bề mặt Trái đất khô lạnh. Vào thời kỳ gian băng nhiệt độ bề
mặt Trái đất đan xen giữa nóng ẩm và khô hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ dao động của nước biển (dâng, hạ) lên
đến hàng chục, hàng trăm mét. Mỗi chu kỳ kéo dài hàng vạn, chục vạn năm. Mỗi chu
kỳ như vậy còn được chia ra các chu kỳ ngắn hơn với thời gian kéo dài nhiều trăm
năm đến nghìn năm với biên độ dao động mực nước biển 2-3 m hoặc hơn. Khí thải CO2 làm tăng hiệu ứng nhà kính là hiện tượng do con
người gây ra trong mấy trăm năm gần đây. Vì vậy, theo
tôi cả hai nguyên nhân trên đều có cơ sở thực tế và chúng cùng tác động gây ra
tình trạng Trái đất nóng lên một cách bất thường như hiện nay. Do đó, cần phải
nhìn nhận hiện tượng nóng lên của Trái đất hiện nay bằng quan điểm biện chứng: chu
kỳ nóng ấm của Trái đất mang tính nội sinh và ngoại sinh tự nhiên được đẩy nhanh
và trở nên nghiêm trọng hơn do những tác động của khí thải công nghiệp và hiệu
ứng nhà kính.
II. HIỆN TƯỢNG VÀ BẢN CHẤT DÂNG CAO MỰC NƯỚC
ĐẠI DƯƠNG
Hệ quả đồng hành với việc bề mặt Trái đất nóng lên luôn luôn là sự tan
những khối băng vĩnh cửu ở hai đầu địa cực và trên đỉnh những dãy núi cao. Nhưng
có lẽ chưa bao giờ tốc độ tan băng lại diễn ra với tốc độ nhanh và quy mô lớn
như ngày nay. Thử điểm một vài tin chính: ở Nam Cực, tháng 3/2002, các nhà khoa
học tận mắt chứng kiến khối băng 500 tỷ tấn tan rã thành hàng nghìn mảnh; ở Bắc
Cực, mùa hè 2002, lượng băng tan ở Greenland cao gấp đôi so với 1992, diện tích
băng tan đã lên tới 655.000 m2. Hơn 110 sông băng và những cánh đồng
băng vĩnh cửu ở bang
Băng tan và nhiệt độ tăng làm nở thể tích trung bình của nước
được coi như hai nguyên nhân chính dẫn đến mực nước đại dương cao dần lên, làm
tràn ngập các đồng bằng thấp ven biển. Các số liệu quan trắc mực nước biển thế
giới cho thấy mức tăng trung bình trong vòng 50-100 năm qua là 1,8
mm/năm. Nhưng chỉ trong 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc của vệ tinh NASA cho
thấy xu thế biển dâng đang gia tăng rất nhanh, với tốc độ trung bình là 3
mm/năm. Báo cáo của IPCC, do hàng chục nhà khoa học soạn thảo và hơn 2000 nhà
khoa học từ 130 quốc gia tham gia đóng góp ý kiến, đưa ra dự báo: đến cuối thế
kỷ XXI, nhiệt độ bề mặt Trái đất sẽ tăng thêm từ 1,4 đến 4°C, mực nước biển sẽ
dâng thêm khoảng 28-43 cm. Nhiều nhà khoa học còn đưa ra những dự báo mực nước
biển đang dâng nhanh hơn nhiều, nhất là do hiện tượng tan băng đang xảy ra với
tốc độ đáng kinh ngạc trong thời gian gần đây. Nhà địa lý học Richard Alley ở
Đại học
III. NHỮNG HIỂM HỌA ĐÃ, ĐANG VÀ SẼ XẢY RA Ở
VIỆT
Thời kỳ băng hà cuối cùng của địa cầu trong kỷ Đệ tứ (băng hà Wurm 2)
lạnh nhất cách đây khoảng 18.000 năm. Thời đó, biển lùi xa về phía đông. Các tài liệu khoan thăm dò
dầu khí đã ghi nhận dấu vết đường bờ biển thời đó nằm trên thềm lục địa ở độ sâu
100-120 m so với mực nước biển hiện tại. Thời đó, toàn bộ vùng Vịnh Bắc Bộ và
thềm Sunda (nối liền Nam Bộ Việt
Các nhà nghiên cứu khảo cổ Việt
Những điều trình bày sơ lược trên đây cho thấy, nếu chu
kỳ biển tiến, lùi với biên độ thời gian khoảng 800-1000 năm thì hiện tại chúng
ta đang ở đoạn cuối của chu kỳ biển tiến hiện đại, không loại trừ tốc độ sẽ
nhanh hơn nhiều hoặc có đột biến. Như vậy, mực nước biển dâng đang xảy ra nằm
trong chu trình chung của biến động, cộng thêm tác động
nhanh do hiệu ứng nhà kính gây ra, làm cho chúng ta phải nhìn nhận vấn đề một
cách cảnh giác hơn, chứ không phải ngược lại. Dù nguyên nhân
nào thì việc nhận thức được để có kế hoạch ứng phó, vì sự tồn tại và phát triển
bền vững cho mỗi quốc gia dân tộc cũng như toàn nhân loại là điều con người có
thể và cần phải làm.
Trong tình hình biển tiến hiện nay, bà Susmita Dagupta, chuyên gia kinh
tế, đồng tác giả của báo cáo “Ảnh hưởng khi mực nước biển tăng lên ở các nước
phát triển: Phân tích so sánh” do Ngân hàng Thế giới công bố hồi đầu năm nay
cho biết: mực nước biển chỉ cần dâng thêm 1 m thì sẽ gây nên hiểm họa lớn đối
với các nước có vùng dân cư và đời sống kinh tế tập trung ở các vùng đồng bằng
thấp dọc ven biển. Việt Nam là một trong những nước sẽ bị tác động lớn; khi đó
sẽ có đến 10,8% dân số Việt Nam bị tác động nặng nề, do có 2 đồng bằng thấp chủ
yếu là đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Cửu Long.
Về phía Việt
Ở vùng ven biển, đã thấy rõ hiện tượng vùng ngập triều cửa sông mở rộng
hình phễu (hiện tượng estuary) trên những diện rộng, nhất là ở hạ du các hệ
thống sông nghèo phù sa. Rõ nhất là vùng hạ du hệ thống
sông Thái Bình - Bạch Đằng, ở vùng ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh và hệ thống
sông Đồng Nai, ở vùng ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Vào
mùa khô, các nhánh sông và dòng sông ở các khu vực này đã không thể đóng vai trò
tiêu thoát nước về phía biển, biến thành những dòng sông, kênh tù đọng với mức
độ ô nhiễm nhân tạo gây nguy hại cho đời sống của những vùng dân cư đông đảo
(thuộc diện này có thể kể đến cả vùng rộng lớn thuộc các lưu vực sông Nhuệ, sông
Đáy, Châu Giang ở phía tây nam Hà Nội và các tỉnh Hà Tây, Hà Nam, Nam Định và
Ninh Bình).
Hiện tượng sạt lở bờ biển trên nhiều đoạn kéo dài hàng chục, hàng trăm
km với tốc độ phá hủy bờ sâu vào đất liền hàng chục, thậm chí hàng trăm mét, là
hiện tượng xảy ra thường xuyên trong nhiều năm gần đây, liên quan đến sự tàn phá
do gia tăng bão, sóng lớn và sự thay đổi của động lực biển ở đới bờ. Hiện tượng
hình thành các cồn cát chắn và tái trầm tích bồi lấp luồng vào các cửa sông, gây
trở ngại lớn cho hoạt động vận tải ra vào các cảng biển, khiến cho những công
trình nạo vét rất tốn kém đều nhanh chóng bị vô hiệu hóa.
IV. CHÍNH PHỦ VÀ CÁC NHÀ KHOA HỌC VIỆT
Cần lưu ý rằng các hiện tượng như đã nêu trên xảy ra còn có tác động của
nhiều yếu tố, như lượng nước và phù sa của các lưu vực sông; hoạt động nâng, hạ
của kiến tạo địa chất hiện đại; tác động bất thuận chiều của các công trình nhân
tạo, v.v... Vì vậy, càng rất cần được chú trọng nghiên cứu,
xem xét. Việt
Trước hết, Việt
Việt Nam, một nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, nằm
trong nhóm nước dễ bị tổn thương bởi các vấn đề môi trường do biến đổi khí hậu
gây ra, như lũ lụt, hạn hán, bão ... Bên cạnh đó, với đường bờ biển dài, vấn đề
mực nước biển dâng cao có thể làm mất 12,2% diện tích
của lãnh thổ và đe dọa tới chỗ sinh sống của 17 triệu người.
Chương trình quốc gia về biến động khí hậu toàn cầu tác động vào Việt
Nam cần được tổ chức nghiên cứu, rà soát, kiểm định lại những kết quả nghiên cứu
đã có từ trước tới nay, thực hiện một số đề tài nghiên cứu có mục tiêu hướng tới
những kết luận khoa học tin cậy, dự báo được chiều hướng biến động cả trước mắt
cũng như ở tầm trung hạn, dài hạn (được hiểu theo nghĩa tính bằng thập kỷ và thế
kỷ). Các kết luận khoa học phải trở thành cơ sở cho việc hoạch định các quy
hoạch, chiến lược và chính sách vì sự nghiệp phát triển bền vững cho tương lai
đất nước, đặc biệt là quy hoạch xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật quốc gia, xây
dựng các đô thị và vùng tập trung dân cư, các khu, cụm công nghiệp ... Trọng tâm
của chương trình cần: tăng cường đầu tư, tổ chức các công tác điều tra cơ bản và
mạng quan trắc sự biến đổi nhiệt độ, những biến động về quy luật vận động của
khí quyển và thủy quyển và về vận động kiến tạo hiện tại ở Việt Nam, áp dụng
những thiết bị và công nghệ tiên tiến hiện nay. Dự án
VinaSat sắp tới cũng phải tính đến yêu cầu này. Tích cực tham gia Nghị định thư
Montreal về giảm khí thải CFCs, Nghị định thư Kyoto về giảm khí thải CO2
và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính, trước hết là phát huy kết quả và thúc đẩy
mạnh mẽ việc thực hiện chương trình quốc gia đã được triển khai về phủ xanh đất
trống, đồi núi trọc, hạn chế tối đa tệ nạn cháy rừng, phục hồi nhanh chóng hệ
sinh thái rừng ngập mặn đã bị tàn phá nặng nề. Đặc biệt, Việt
Một mặt, chúng ta chủ động, tích cực thực hiện phần trách nhiệm quốc gia
của mình, mặt khác chúng ta cũng tích cực lên tiếng đòi các nước phát triển thực
hiện cam kết thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc và các Hiệp định, Nghị định thư
quốc tế về bảo vệ môi trường Trái đất vì sự sống còn của nhân loại. Tổng kết,
rút ra các kinh nghiệm thành công và chưa thành công của cha ông ta trong nhiều
thế kỷ qua, được đẩy mạnh trong thời cận hiện đại trong việc ứng phó với các
loại “thiên tai” thường xuyên xảy ra ở các vùng đồng bằng thấp, vùng ven biển;
xây dựng mạng kênh mương rộng lớn phục vụ việc tưới và tiêu nước cho đồng bằng;
gia cố hệ thống đê điều; xây dựng các công trình hồ thủy điện - thủy lợi điều
tiết ở thượng nguồn; từng bước xây dựng tuyến đê biển từ Bắc vào Nam kết hợp xây
dựng các cống điều tiết thoát lũ và ngăn mặn ở các cửa sông; xây dựng các công
trình kè bờ chống sạt lở sông và biển; nạo vét dòng chảy cửa sông, luồng vào
cảng; bơm thoát nước cưỡng bức đối với nạn úng, ngập sâu và ô nhiễm nặng tại các
vùng đất thấp ở đồng bằng và ven biển. Đặc biệt, những hệ thống công trình có
quy mô lớn, xây dựng bền vững lâu dài, như hệ thống công trình “chung sống với
lũ” ở đồng bằng Cửu Long, tuyến đê biển Bắc-Nam, cần được hoạch định có căn cứ
khoa học về tuyến, về nền móng, để những công việc được thực hiện ngày nay còn
được tiếp nối thuận lợi cho nhiều thế hệ mai sau. Cần lưu ý
rằng, các giải pháp như đã nêu trên không phải là không có những ý kiến khác
nhau về mặt luận cứ khoa học.
Những công việc đã làm cho thấy không phải chúng ta không có những kinh
nghiệm nhất định trong việc ứng phó với tai biến do
nước biển dâng. Nhưng đó là việc biển dâng tiệm tiến. Vấn đề của báo động toàn cầu hiện nay là có nhiều khả năng biển sẽ
dâng nhanh hơn và không loại trừ đột biến lớn, đưa đến hiểm họa hay thảm họa lớn
cho nhân loại. Quả thật, nhận thức và suy nghĩ của
chúng ta về vấn đề này còn quá ít. Để kết thúc, tôi
thấy cũng cần nhắc đến những kinh nghiệm lịch sử của nhân loại đã được các nhà
nghiên cứu thế giới đề cập từ lâu. Vì sao những nền văn minh rực rỡ của
nhân loại, như các nền văn minh Lưỡng Hà, Ai Cập ở Trung Cận Đông - Bắc Phi, các
nền văn minh Maya và Inca ở Trung và Nam Mỹ bị suy tàn, thậm chí biến mất một
cách khó hiểu ? Nguyên nhân gốc rễ của các hiện tượng trên
chắc chắn là hệ quả của sự biến đổi khí hậu lớn có tính toàn cầu, biểu hiện cụ
thể ở từng khu vực, lãnh thổ. Cũng không phải không có lý khi gần đây
xuất hiện các thông tin về việc Bộ Môi trường Nhật Bản cho biết sẽ cần hơn 64,5
tỷ USD để đối phó với mực nước biển dâng cao do băng tan ở hai cực. Phía Nhật
Bản ước tính nếu mực nước biển tăng thêm 1 mét, 90% số bãi biển của nước này sẽ
bị “nuốt chửng”, sản lượng lúa sẽ giảm 50% ... Các nguồn tin cũng cho biết Trung
Quốc đang xem xét việc xây dựng hệ thống đê kiên cố dọc suốt bờ biển, một kế
hoạch được coi là xây dựng một “Vạn lý trường thành mới”.
Việt Nam là nước tham gia ký kết và tích cực thực hiện “Tuyên bố Thiên
niên kỷ” của Liên hiệp quốc năm 2000, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường sống của
hành tinh được nhấn mạnh. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ X (tháng 4/2006) đặc biệt coi trọng yêu cầu phát triển nhanh,
song phải bền vững, trong đó có yếu tố bảo vệ môi trường sinh thái; Nghị quyết
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X mới đây về chiến lược biển dài hạn cũng
nhấn mạnh vấn đề bảo vệ môi trường gắn liền với khai thác nguồn lợi của biển.
Rõ ràng vấn đề đặt ra vừa có yêu cầu bức xúc trước mắt, vừa có tầm quan trọng chiến lược lâu dài, cần có sự báo động và hành động trước khi quá muộn.