BÀN VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TÂN KIẾN TẠO VÀ ĐỊA ĐỘNG LỰC LÃNH THỔ
VIỆT
LÊ TRIỀU VIỆT
Viện Địa
chất, Viện KH & CN VN, Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội
Tóm tắt: Bài viết đề cập đến một số vấn đề của địa
động lực và tân kiến tạo mà kết quả nghiên cứu của các chuyên ngành không thống
nhất với nhau như:
- Vấn đề nâng lên (hình thành) của dãy Hoàng Liên Sơn
và khối Phan Si Pan;
- Tuổi hình thành của các trũng Đệ tam dọc đới đứt
gãy Sông Hồng trong mối quan hệ với sự trồi lộ của dãy núi Con Voi;
- Phun trào bazan Kainozoi muộn ở Nam Trung Bộ trong
mối quan hệ với thời điểm đổi chiều chuyển dịch từ trượt bằng trái sang trượt
bằng phải của hệ thống đứt gãy phương TB-ĐN và thời điểm hình thành bề mặt san
bằng ở khu vực này;
- Mô hình (dự kiến) về sự phát triển tân kiến tạo và
địa động lực miền Bắc Việt Nam và các vùng lân cận.
MỞ ĐẦU
Cho đến gần đây, hầu như các hướng nghiên cứu về tân kiến tạo và địa động
lực đã đi đến nhận định thống nhất rằng: chế độ địa động lực thời kỳ Kainozoi
lãnh thổ Việt Nam và lân cận phát triển theo mô hình biến dạng hai pha do ảnh
hưởng của sự va chạm giữa lục địa Ấn Độ và Âu - Á xảy ra vào thời kỳ Paleogen.
Trong pha đầu (Eocen-Miocen), chế độ địa động lực khu vực đặc trưng bởi trường
ứng suất kiến tạo có lực nén ép theo phương á vĩ tuyến, tách giãn theo phương á
kinh tuyến; trong pha sau (Pliocen - Đệ tứ), trường ứng suất lại có chế độ nén
ép theo phương á kinh tuyến và tách giãn theo phương á vĩ tuyến. Với chế độ
trường ứng suất như vậy, các đứt gãy phương TB-ĐN chuyển dịch trái, các đứt gãy
ĐB-TN chuyển dịch phải trong pha đầu và các đứt gãy phương TB-ĐN chuyển dịch
phải, các đứt gãy ĐB-TN dịch chuyển trái trong pha sau. Vì vậy sự hình thành,
phát triển và biến dạng kiến trúc Kainozoi ở Việt Nam cũng như khu vực lân cận
gắn liền với hoạt động trượt bằng của các đới đứt gãy, nhưng chủ yếu là gắn liền
với đới đứt gãy Sông Hồng dài gần ngàn km cắt qua
miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên sử dụng mô hình va chạm trên cũng như hệ quả gây ra
từ nó để luận giải một số vấn đề về tân kiến tạo - địa động lực, về sự phát
triển kiến trúc thì chưa có ý kiến thống nhất.
Sau đây, chúng tôi góp phần luận bàn về một số khía cạnh như:
- Địa hình của Phan Si Pan và dãy Hoàng Liên Sơn có phải mới được tạo ra do
sự nâng mạnh trong giai đoạn Pliocen - Đệ tứ hay không?.
- Các trũng Đệ tam dọc đới đứt gãy Sông Hồng hình thành vào thời điểm nào
trong mối quan hệ với sự nâng trồi lộ của dãy Núi Con Voi (DNCV).
- Mối quan hệ giữa phun trào bazan, bề mặt san bằng ở Nam Trung Bộ và thời
điểm đổi chiều dịch chuyển từ trái sang phải của các đứt gãy TB-ĐN.
I. VẤN ĐỀ NÂNG LÊN CỦA KHỐI P
Sự hình thành địa hình dãy Hoàng Liên Sơn và khối Phan Si Pan nói riêng,
cũng như Tây Bắc Bộ nói chung, trước đây được hiểu là hậu quả của một quá trình
nâng hạ phức tạp phát triển tiếp theo sau pha bình ổn kiến tạo tạo bề mặt san
bằng mang tính khu vực (bề mặt san bằng Đông Dương) từ cuối Paleogen. Và ngày
nay phần sót của bề mặt san bằng hình thành vào thời kỳ nửa cuối Paleogen còn
tồn tại ở độ cao hơn 2600 m trên dãy Hoàng Liên Sơn [1,12].
Gần đây, theo tính toán của các công trình [16, 17] thì sự nâng lên của
Phan Si Pan mới xảy ra trong thời kỳ Pliocen - Đệ tứ. Logic dẫn đến kết luận này
theo công trình [16] là “dưới tác động của trường ứng suất hiện đại, đới đứt gãy
Sông Hồng, Sông Chảy dịch trượt bằng phải làm cánh tây nam chuyển về phía tây
bắc. Trong khi đó đứt gãy Điện Biên trượt bằng trái. Kết quả là phần kẹp giữa
hai đới đứt gãy bị dồn nén…, dãy Hoàng Liên Sơn bị nâng lên là kết quả của dồn
nén này” và sự “nâng mạnh nhất của vùng núi Phan Si Pan với tốc độ trung bình từ
Pliocen tới nay cỡ 0,8-1,4 mm/ năm (biên độ nâng 4-7 km trong vòng 5 triệu
năm)’’ [17].
Chúng ta hãy xem xét vị trí động lực của các kiến trúc liên quan ở đới kiến
trúc Phan Si Pan.
Theo như công trình [11] thì trong giai đoạn Pliocen - Đệ tứ, đới đứt gãy
Điện Biên - Lai Châu có hướng đổ về TN và hoạt động với cơ chế trượt bằng -
thuận trái. Nhận định này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của các công trình
[26, 27]. Đề cập đến đứt gãy Sông Hồng, công trình [5] kết luận là đứt gãy này
hoạt động với cơ chế trượt bằng phải trong giai đoạn Pliocen - Đệ tứ và công
trình [18] cho là đứt gãy trượt bằng thuận hay “chuyển dịch trượt bằng phải -
tách giãn” khi đề cập đến cả đới.
Nghiên cứu các kiến trúc đứt gãy nằm kẹp giữa hai đới đứt gãy lớn vừa nêu,
công trình [26] kết luận “đới đứt gãy Thuận Châu - Sơn La và hàng loạt đứt gãy
cùng phương bậc cao trên đới Sông Đà được xác định là trượt bằng thuận. Hợp phần
thuận được xác định khá chắc chắn cho nhiều đứt gãy trong đới. Các kiểu trường
ứng suất kiến tạo (TƯSKT) xác định tại nhiều khu vực trên đới đều thuộc kiểu
trượt bằng hoặc trượt bằng tách mở”.
Một số đứt gãy có liên quan trực tiếp với khối nâng Phan Si Pan như đứt gãy
Phong Thổ - Nậm Pìa, đứt gãy Sa Pa - Văn Bàn và đứt gãy Nghĩa Lộ - Ninh Bình
được nhận định tóm tắt như sau:
Tác giả công trình [17] cho đứt gãy Phong Thổ - Nậm Pìa - đứt gãy phân đới
giữa trũng núi lửa Tú Lệ và rift Sông Đà là “hệ thống đứt gãy thuận, hoạt động
tách giãn - trượt bằng phải kéo dài từ Phong Thổ theo hướng tây tây bắc - nam
đông nam tới Phù Yên”. Còn “đứt gãy
Như vậy, dãy Hoàng Liên Sơn nằm trong trạng thái địa động lực mà cả khu vực
chủ yếu là trượt bằng, trượt bằng phải thuận trong thời kỳ Pliocen - Đệ tứ
như nêu trên thì liệu kiến trúc này có thể nâng lên mạnh đến 4-7 km để tạo ra
địa hình hiện nay như các công trình [17,19] phân tích được không. Nếu cứ cho là
dãy Hoàng Liên Sơn và khối Sa Pa vì là nằm kẹp giữa đứt gãy Điện Biên - Lai Châu
và đứt gãy Sông Hồng nên bị nén ép mà nâng lên mạnh như đã đề cập, thì dãy Pu Si
Lung cao 3076 m (thấp hơn đỉnh Sa Pa chỉ hơn 60 m) nằm ngoài vùng ảnh hưởng của
nén ép trên thì nâng lên vì nguyên nhân nào? Cho rằng Sa Pa và Pu Si Lung vào
thời điểm sát trước Pliocen có độ cao như nhau “nếu chú ý tới giai đoạn ngừng
nghỉ kiến tạo từ 15- 5 triệu năm, thời gian này đủ để thành tạo một bề mặt tương
đối bằng phẳng” [17] ở Tây Bắc Bộ.
II. VỀ THỜI GIAN HÌNH THÀNH CÁC TRŨNG ĐỆ TAM DỌC ĐỚI ĐỨT GÃY SÔNG HỒNG VÀ
SỰ TRỒI LỘ CỦA DÃY NÚI CON VOI (DNCV)
Một vấn đề khác cũng liên quan đến tân kiến tạo là quá trình nâng trồi lộ
của Dải Con Voi và thời điểm hình thành các trũng Đệ tam dọc đới đứt gãy Sông
Hồng.
Theo Trần Ngọc
Nghiên cứu trầm tích Kainozoi có tuổi sớm nhất - lót đáy các trũng
Kainozoi, các công trình [9] và [3] đã đi đến kết luận “dăm tảng kết thường có
kích thước 35-40 cm, góc cạnh hoặc mài tròn kém có thành phần (phổ biến) đồng
nhất, đặc trưng là các đá biến chất cổ của phức hệ Sông Hồng tuổi Proterozoi với
đá gneis và đá phiến kết tinh chiếm tới 80-90%”. Điều này cũng được khẳng định bởi công trình [2] “trong tảng cuội kết
Neogen có rất nhiều tảng, cuội là gneis, đá phiến mica của phức hệ Sông Hồng” và
“quan hệ bất chỉnh hợp của trầm tích Neogen lên các đá biến chất DNCV chỉ là
bằng chứng khẳng định tuổi biến chất
cổ hơn tuổi tầng trầm tích Neogen” [24]. Từ đây dễ nhận thấy các
trũng Kainozoi được hình thành sau hoặc vào thời điểm kết thúc giai đoạn trồi lộ
của DNCV. Vì chưa xác định tuổi tuyệt đối cho trầm tích này nên công trình [19] đặt nghi vấn về tuổi của trầm
tích này là 20 tr.n., 10 tr.n. hay muộn hơn nữa. Tác giả công trình [24] nhận
xét các thành tạo Neogen “có lẽ thành tạo vào cuối Neogen liên quan với việc
thành tạo các “các địa hào” do quá trình đổi hướng dịch bằng trái
sang chuyển dịch bằng phải của đới đứt gãy Sông Hồng vào khoảng 5-6 tr.n.
trước.
Nghiên cứu trầm tích Kainozoi dọc đứt gãy Sông Hồng, các nhà trầm tích cho
rằng chúng hình thành vào Eocen-Oligocen [3, 9, 13] hay
muộn hơn là Miocen sớm [6] và muộn nhất là Miocen giữa. Như vậy là trầm tích
trên có tuổi muộn nhất cũng cỡ 16-11 tr.n.
Nếu chấp thuận nhận định của công trình [16, 24] là các trũng Kainozoi hình
thành từ sau 21 tr.n. hay vào ranh giới chuyển đổi hướng trượt bằng dọc đới đứt
gãy Sông Hồng thì sẽ khó giải thích một số điểm sau:
- Nếu các trũng hình thành vào thời điểm 20-21 tr.n. trước tức là lúc hoạt
động của đứt gãy Sông Hồng đang yếu dần và sắp bước vào giai đoạn ngừng nghỉ thì
với cơ chế nào để tạo ra tầng dăm tảng kết kiểu “tướng sụp nhào” (olistostrom)
dày tới 50-250 m [3, 9]. Thông thường tướng trầm tích này chỉ có thể
hình thành trong điều kiện hoạt động kịch phát của đứt gãy với thế năng địa hình
rất lớn.
- Nếu các trũng hình thành vào thời điểm 5-6 tr.n. trước tức là lúc hoạt
động trượt bằng dọc đứt gãy Sông Hồng thay đổi chiều từ trái sang phải thì chúng
không thể được tạo ra theo cơ chế kéo tách như công trình [4, 5] đã chứng minh.
- Vào thời kỳ Pliocen nơi sụt lún mạnh nhất trên lục địa là trũng Hà Nội
cũng chỉ có độ dày khoảng 400 m [22] thì dọc đứt gãy Sông Hồng, nơi được coi là
sụt lún yếu hơn, tại sao lại có thể tạo thành tầng trầm tích Kainozoi dày tới
400-1400 m như công trình [9] đã đề cập. Thông thường các trầm tích Pliocen gắn
kết yếu [22], còn dăm tảng kết “Neogen” dọc sông Hồng không thể cho là gắn kết
yếu (phải là quá rắn chắc).
- Hơn nữa, nếu trầm tích thành tạo trong thời kỳ Pliocen thì giải thích thế
nào về sự tồn tại phấn hoa đặc trưng cho
tuổi Oligocen như: Cicatricosisporites dorogensis,
Verrutricolporites, Pachydermus, Pinuspollenites sp., Pediastrum trong trầm
tích “Neogen” ở Cổ Phúc (tây bắc Yên Bái) như công trình [13] đã nêu.
III. VỀ VẤN ĐỀ PHUN TRÀO BAZAN VÀ BỀ MẶT SAN BẰNG Ở
Thời gian gần đây, hoạt động tân kiến tạo Nam Trung Bộ (NTB) được hiểu là
xảy ra muộn hơn so với miền Bắc phù hợp với tính lan truyền sự ảnh hưởng do va
chạm Ấn Độ và Âu - Á theo hướng từ tây bắc về đông nam để “khẳng định cơ chế
chuyển dịch mang tính lan truyền của lục địa Đông Dương trong quá trình đụng độ”
[21]. Sự muộn hơn của hoạt động tân kiến tạo đó được chứng minh bằng tuổi hình
thành muộn hơn của các trũng Kainozoi như các trũng Sông Ba, Kon Tum, Bảo Lộc -
Di Linh… so với các trũng Kainozoi ở miền Bắc và hoạt động phun trào bazan rầm
rộ trong thời kỳ Pliocen - Đệ tứ.
Hoạt động tân kiến tạo của miền Nam nói chung và NTB nói riêng được cho là
muộn hơn miền Bắc thì dễ nhận thấy, song nhận định thời điểm phun trào bazan
mạnh ở NTB ứng với thời điểm đổi chiều chuyển dịch dọc các đứt gãy phương TB-ĐN
từ trái sang phải (vào khoảng 5-5,5 tr.n. trước) và trùng khớp với thời điểm tạo
ra bề mặt san bằng phổ biến ở NTB để phân giai đoạn hoạt động tân kiến tạo như
công trình [21] đề cập có lẽ cần được phân tích cụ thể hơn. Thực ra quá trình
phun trào bazan Kainozoi muộn ở Nam Trung Bộ xảy ra mạnh và sớm hơn nhiều so với
mốc thời gian trên.
Việc đối sánh thời điểm “chuyển giao quyền lực” giữa hai pha kiến tạo (pha
Eocen-Miocen và Pliocen - Đệ tứ) tương ứng với thời kỳ thành tạo các bề mặt san
bằng phổ biến ở NTB như ở An Khê, Kon Tum, Di Linh - Đức Trọng, Pleiku, Vân Hòa
cũng cần được nghiên cứu thêm, bởi vì công trình [8] đã chứng minh các bề mặt
san bằng trên có tuổi Pliocen muộn tức là muộn hơn nhiều so
với thời điểm chuyển đổi pha kiến tạo.
Từ những chứng cứ trên ta thấy 3 sự kiện: phun trào bazan mạnh, chuyển đổi
pha kiến tạo và hình thành bề mặt san bằng phổ biến đã xảy ra không cùng một
thời điểm. Có ý kiến cho rằng cả 3 sự kiện trên có thể xảy ra đồng thời. Vâng có
thể chứ, nhưng ở mức độ nào, và thời điểm nào là cực thịnh. Còn trong xu thế
tách giãn mạnh và phun trào bazan “rầm rộ” mà lại tạo ra bề mặt san bằng phổ
biến (chứ không phải cục bộ) thì khó giải thích về mặt động lực.
IV. MÔ HÌNH ĐỂ LỰA CHỌN
Những dẫn chứng và nhận định trên cho thấy việc phân tích, giải thích sự
phát triển tân kiến tạo và địa động lực của Việt
Với những tài liệu nghiên cứu về kiến trúc, lịch sử phát triển, cơ chế hình
thành và biến dạng các trũng Kainozoi cùng với tài liệu tham khảo, chúng tôi gợi
ý một mô hình phát triển địa động lực Kainozoi miền Bắc Việt Nam và lân cận với
những nét cơ bản như sau.
Vào giai đoạn Eocen muộn - Oligocen, sự va chạm giữa Ấn Độ và Âu - Á đã vào
thời kỳ đỉnh điểm, khối Mường Tè tiếp tục dịch chuyển phải về hướng ĐB dọc theo
đới đứt gãy Điện Biên - Lai Châu, hoạt động trượt bằng trái dọc đới đứt gãy Sông
Hồng bắt đầu tăng trưởng. Hoạt động này đã gây tách giãn dọc đới đứt gãy này
đồng thời lôi cuốn khối biến chất (DNCV) từ độ sâu xấp xỉ hai chục km, vừa trượt
về ĐN vừa nâng dần lên bề mặt [23]. Sự trượt trái kèm theo tách giãn dọc đứt gãy
Sông Hồng đã làm tăng cơ hội để nhánh tây bắc của một cấu trúc ba chạc [2] Nam
Hải Nam phát triển về phía tây bắc tạo điều kiện hình thành trũng nội lục Hà Nội
rộng lớn sau này. Vào cuối thời kỳ này địa hình Tây Bắc Việt Nam mà chủ yếu là
dãy Hoàng Liên Sơn còn là một miền núi thấp [1], ở phía ĐB đứt gãy Sông Hồng địa
hình DNCV do mới trồi lộ ra trên bề mặt
nên có độ cao thấp hơn.
Vào giai đoạn Oligocen muộn - Miocen sớm, hoạt động trượt bằng trái dọc đới
đứt gãy Sông Hồng trở nên mạnh mẽ theo cả chiều ngang lẫn chiều đứng [4], quá
trình phá huỷ và bóc mòn địa hình dọc đứt gãy cũng mãnh liệt. Vật liệu phá huỷ
và tàn tích [9] ở những nơi nhô cao của DNCV được vận chuyển xuống thung lũng
sông Hồng kề cận - vùng đang tách giãn mạnh, tạo nên dải trũng hẹp dọc đứt gãy
này.
Tương tự như vậy ở một số nơi dọc các đứt gãy phương TB-ĐN, á vĩ tuyến hoạt
động tách giãn do trượt bằng cũng gia tăng. Hệ quả là xuất hiện nhiều trũng
Kainozoi dọc các đứt gãy này (trũng Cao Bằng, trũng Nà Dương, trũng
Với ảnh hưởng của lực nén ép này các hệ thống đứt gãy phương ĐB-TN ở Nam
Trung Bộ tái hoạt động kèm theo phun trào bazan mạnh mẽ. Quá trình nén ép này
xảy ra ngắn ngủi và suy yếu hẳn vào cuối Miocen. Sang đầu Pliocen, chế độ địa
động lực khu vực lại chuyển sang một trạng thái mới dưới tác động của trường ứng
suất kiến tạo có phương nén ép á kinh tuyến làm thay đổi cơ bản chiều chuyển
dịch trượt bằng dọc các hệ thống đứt gãy: từ trái sang phải ở dọc các đứt gãy
phương TB-ĐN và từ phải sang trái dọc các đứt gãy phương ĐB-TN [10, 21] (ở miền
Bắc rõ nét hơn). Hệ quả của sự trượt bằng phải mạnh đã gây tách giãn ở một số
nơi, phát sinh các đứt gãy á kinh tuyến trong thời kỳ đầu và chuyển dần sang nén
ép ở thời kỳ tiếp theo làm cho địa hình ở miền Bắc nâng lên với tốc độ và biên
độ lớn, nhất là vào cuối Pliocen - đầu Đệ tứ [1]. Trong khi đó ở miền
Trên đây là những nét chính về mô hình địa động lực mà chúng tôi nhận thấy
qua các tài liệu nghiên cứu và tổng hợp. Chắc hẳn, để xây dựng được mô hình này
còn rất nhiều điều cần được nghiên cứu sâu sắc hơn.
Lời
cảm ơn: Công trình được hoàn thành
với sự tài trợ của Chương trình nghiên cứu cơ bản giai đoạn 2004-2005 cho Đề tài
71. 33. 04. Tác giả xin cảm ơn Ban chủ nhiệm chương trình.
VĂN LIỆU
1. Lê Đức An và nnk, 2004. Địa mạo đới đứt gãy Sông Hồng và tai biến
thiên nhiên. Trong ‘‘Đới đứt gãy Sông Hồng, đặc điểm địa động lực, sinh
khoáng và tai biến thiên nhiên. Kết quả nghiên cứu cơ bản 2001- 2003’’, tr.5 -
74. Nxb KHKT,
2.
3. Lê Thị Nghinh, Nguyễn Xuân Huyên, Nguyễn Trọng
Yêm, Trần Thị Sáu, Đào Thị Miên, 1991.
Trầm tích Kainozoi đới Sông Hồng, Địa chất
- Tài nguyên, Nxb. KHKT,
tr. 105- 115, Hà Nội.
4.
5. Nguyễn Đăng Túc, 2002. Một số đặc
điểm tân kiến tạo hệ đứt gãy Sông Hồng - Sông Chảy. Luận án TS. Thư
viện Quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Địch Dỹ, 1987. Địa tầng và cổ địa lý Kainozoi Việt
7.
8. Nguyễn Xuân Đạo, Nguyễn
Trọng Yêm, Nguyễn Địch Dỹ, Trần Văn Diễn, Phạm Văn Cự, Nguyễn Công Tuyết, 1985. Mặt san bằng Pliocen muộn ở miền Nam Việt
9. Nguyễn Xuân Huyên, Phan Đông Pha, Nguyễn Quang Hưng,
2004. Lịch sử phát triển các thành
tạo trầm tích Paleogen-Neogen trong mối quan hệ với đới đứt gãy Sông Hồng.
Trong “Đới đứt gãy Sông Hồng, đặc điểm địa động lực, sinh khoáng và tai biến
thiên nhiên. Kết quả nghiên cứu cơ bản 2001- 2003”. Nxb KHKT,
10. Nguyễn Trọng Yêm, 1991. Về hoàn cảnh địa động lực tân kiến tạo miền Nam
Trung Bộ, TC Địa chất, A/ 202-203 : 28- 32.
11. Nguyễn Văn Hùng, 2002. Một số đặc
điểm cơ bản đứt gãy tân kiến tạo khu vực Tây Bắc. Luận án TS. Thư viện
Quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Vĩnh
(chủ biên), 1978. Địa chất tờ
13.
14.
15.
16. Phan Trọng Trịnh, Nguyễn Trọng Yêm, Lacassin R.,
Leloup P.H., Tapponnier P., Phùng Văn Phách, Nguyễn Hùng, Nguyễn Đăng Túc, 1995. Kiến tạo Kainozoi vùng Tây Bắc Việt
17. Phan Trọng Trịnh và nnk, 1998. Tân kiến tạo, địa động lực và địa chấn kiến tạo
vùng trung lưu Sông Đà. Hội thảo KH “ Tân kiến tạo, địa động lực và tai biến
thiên nhiên, tr. 28- 38.
18. Phan Trọng Trịnh và nnk, 2000. Hoạt động kiến tạo trẻ của đới đứt gãy Sông Hồng và
lân cận. TC Các Khoa học về Trái đất, 22/4 : 325- 336.
19. Phan Trọng Trịnh và nnk, 2004. Biến dạng, tiến hoá nhiệt động, cơ chế dịch trượt của
đới đứt gãy Sông Hồng và thành tạo rubi trong Kainozoi. Trong “Đới đứt gãy
Sông Hồng, đặc điểm địa động lực, sinh khoáng và tai biến thiên nhiên. Kết quả
nghiên cứu cơ bản 2001- 2003”. Nxb KHKT, tr. 5- 74.
20. Phan Trung Điền, Phạm Văn Tiềm, Ngô Thường San,
2000. Một số biến cố địa chất Mezozoi muộn - Kainozoi và hệ thống dầu khí trên
thềm lục địa Việt
21.
22. Trần Nghi và nnk, 2000. Tiến hóa trầm tích Kainozoi bồn trũng Sông Hồng trong
mối quan hệ với hoạt động kiến tạo. TC Các Khoa học về Trái đất, 22/4 : 290-
305.
23. Trần Ngọc
24. Trần Ngọc
25. Trần Văn Thắng, Văn Đức Chương, 1996. Về hoàn cảnh địa động lực hiện đại đới Sông Đà và kế cận. TC Các Khoa
học về Trái đất, 18/3/CĐ : 253-264.
26. Trần Văn Thắng và nnk, 2003. Những đặc điểm cơ bản của đới đứt gãy hoạt động Lai
Châu - Điện Biên và điều kiện phát sinh động đất của đới. Hội thảo KH “Động
đất và một số dạng tai biến tự nhiên khác vùng Tây Bắc Việt
27.