CÁC TAI BIẾN ĐỊA CHẤT Ở TÂY BẮC BỘ
ĐÀO VĂN THỊNH
Trung tâm
Viễn thám Địa chất, Liên đoàn BĐĐCMB, Long Biên, Hà Nội
Tóm tắt: Các tác giả đã phân chia các tai biến địa chất (TBĐC) ở miền Tây Bắc Bộ
thành 4 nhóm nguồn gốc: nội sinh, hỗn hợp, ngoại sinh và nhân sinh bao gồm 12
dạng TBĐC chủ yếu và nêu ra hiện trạng của chúng. Các tác giả cũng đề xuất một
số biện pháp phòng tránh, giảm thiểu hậu quả do các TBĐC gây ra và một số kiến
nghị về phương hướng nghiên cứu, điều tra TBĐC ở Tây Bắc Bộ.
MỞ ĐẦU
Trong mấy năm gần đây, trên thế giới, ở lục địa châu Á và ở nước ta, tai
biến địa chất (TBĐC) phát triển với chiều hướng gia tăng và gây nhiều thiệt hại
không nhỏ về người và của cải vật chất. Ở nước ta, mức độ thiệt hại do TBĐC cũng
ngày càng tăng. Chỉ tính riêng cho thập kỷ 90 (1990-2000), thiên tai ở Việt
Có thể hiểu TBĐC như cách định nghĩa của các nhà nghiên cứu thuộc Sở Địa
chất Mỹ (1987): "TBĐC là các điều kiện, hiện tượng địa chất hoặc có liên quan
đến địa chất xuất hiện tự nhiên hoặc do con người gây ra, gây nguy hiểm hoặc có
tiềm năng gây nguy hiểm cho tính mạng và tài sản của con người".
Trên miền Tây Bắc Bộ các TBĐC có thể được phân chia tổng quát như sau:
Nhóm 1- Các TBĐC nguồn gốc nội sinh:
1. Động đất, 2. Đứt gãy hoạt động.
Nhóm 2- Các TBĐC nguồn gốc hỗn hợp: 1. Trượt đất, 2. Nứt đất, 3. Các TBĐC
liên quan đến các trường địa vật lý, 4. Tai biến địa hoá sinh thái, 5. Sét đánh.
Nhóm 3- Các TBĐC nguồn gốc ngoại sinh:
1. Lũ quét, lũ ống, 2. Xói lở đường bờ sông, 3. Các TBĐC liên quan đến hiện
tượng karst.
Nhóm 4- Các TBĐC nguồn gốc nhân sinh: 1. Tai biến do khai thác khoáng sản,
2. Động đất kích thích xung quanh các hồ chứa.
II. HIỆN TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN MỘT SỐ TBĐC CHỦ YẾU Ở MIỀN TÂY BẮC BỘ
1. Động đất
Theo các tài liệu đã công bố thì Tây Bắc Bộ là một miền có tiềm năng động
đất với cường độ cao và nguy hiểm nhất ở lãnh thổ Việt
Hầu hết các chấn tâm động đất thường tập trung dọc các đứt gãy có độ xuyên
cắt sâu lớn như đứt gãy Điện Biên - Lai Châu, Tuần Giáo - Tủa Chùa (phương á
kinh tuyến) và Sông Mã, Sơn La, Sông Đà, Phong Thổ, Mường Tè (phương TB-ĐN)....
Đới Phong Thổ - Phu Sam Sao là đới có mật độ chấn tâm động đất cao nhất.
Tai biến động đất đã gây ra những thiệt hại không nhỏ về tài sản và tính
mạng của nhân dân. Chỉ tính riêng trận động đất mới xảy ra gần đây vào hồi
22h52' ngày 19/2/2001 với chấn cấp đạt 5,3 độ Richter ở khu vực thị xã Điện Biên
Phủ, tỉnh Lai Châu đã làm thiệt hại gần 200 tỷ đồng, nhiều người bị thương và đã
gây ra sự hoang mang cao độ cho nhân dân.
Nguyên nhân gây ra hiện tượng động đất gồm: 1. Sự chuyển động tương đối
theo chiều đứng và chiều ngang giữa các khối địa chất quy mô kích thước khác
nhau, 2. Tính đang hoạt động của các đứt gãy kiến tạo…[Nguyễn Đình Xuyên, đã
dẫn].
2. Đứt gãy hoạt động
Đứt gãy hoạt động (ĐGHĐ) là một dạng TBĐC rất nguy hiểm bởi tự thân nó đã
là một dạng TBĐC, ngoài ra nó có thể gây ra các dạng TBĐC khác như: động đất,
trượt đất, nứt đất ảnh hưởng tới tốc độ vững bền của các công trình xây dựng,
phá huỷ hoặc làm hư hại các công trình hạ tầng cơ sở quan trọng. ĐGHĐ là các đứt
gãy (ĐG) bắt đầu hoạt động từ 10.000 năm và cho đến ngày hôm nay vẫn hoạt động
và chúng đều là các ĐG sinh chấn.
Qua tổng hợp các tài liệu thu thập và nghiên cứu điều tra bổ sung các tác
giả ghi nhận trên vùng nghiên cứu có 14 đứt gãy (đới đứt gãy) đang hoạt động:
Điện Biên - Lai Châu, Tuần Giáo -Tủa Chùa, Sông Hồng, Sông Mã, Sông Đà, Chợ Bờ,
Phong Thổ - Than Uyên, Sa Pa - Văn Bàn, Nghĩa Lộ - Hoà Bình, Sơn La, Mường Tè,
Sín Thầu - Mường Nhé, Sộp Cộp, trong đó có 2 đứt gãy mới được nghiên cứu chi tiết
là: Điện Biên - Lai Châu và Tuần Giáo - Tủa Chùa. Đứt gãy Điện Biên - Lai Châu:
tốc độ chuyển động dịch ngang theo kết quả đo GPS chính xác là 7 mm/năm; tốc độ
chuyển động thẳng dứng dao động từ -1,5 cm/năm đến +1,2 cm/năm; dị thường khí
thuỷ ngân (Hg) cực đại dao động từ 452 đến 583 ngHg/m3 (giá trị phông
trung bình dao động từ 50,4 đến 58,6 ngHg/m3); dị thường khí rađon
(Rn) cực đại dao động từ 340,8 đến 818,6 pCi/l (giá trị phông trung bình dao
động từ 29,8 đến 32,0 pCi/l). Đứt gãy Tuần Giáo - Tủa Chùa: là một đứt gãy đang hoạt động và là đứt gãy sinh chấn xếp vào
cấp mạnh nhất miền Tây Bắc Bộ, chỉ sau ĐG Điện Biên - Lai Châu. Theo cơ chế động
đứt gãy TG -TC
thuận - trượt bằng phải, dị
thường khí thuỷ ngân (Hg) cực đại dao động từ 261 đến 620 ngHg/m3
(giá trị phông trung bình dao động từ 31,7 đến 55,6 ngHg/m3); dị
thường khí rađon (Rn) cực đại dao động từ 253 đến 1057 pCi/l (giá trị phông
trung bình dao động từ 30,8 đến 41,3 pCi/l)…[Đào Văn Thịnh và nnk, 2004, Lưu trữ
Địa chất].
Sự hoạt hoá của các chuyển động kiến tạo vào giai đoạn tân kiến tạo - hiện
đại là nguyên nhân
chủ yếu gây ra các đứt gãy đang hoạt động…
3. Trượt đất
Các tác giả thống nhất sử dụng các định nghĩa về mặt thuật ngữ liên quan
đến trượt đất như sau:
- Trượt đất là
hiện tượng dịch chuyển đất đá trên
sườn địa hình từ cao xuống thấp theo một mặt trượt nhất định.
- Đá đổ là hiện tượng các khối đá gốc
tách ra khỏi các vách dốc và đổ xuống tại chỗ trên bề mặt điạ hình.
- Đá rơi là hiện tượng các khối đá gốc tách ra khỏi
vách dốc dựng đứng và rơi xuống bề mặt địa hình theo chiều thẳng đứng.
Trượt đất phát triển mạnh mẽ và rộng khắp miền Tây Bắc Bộ. Trượt đất xảy ra
rất mạnh dọc các quốc lộ: 6, 4D, 32, 12, 279, 127... đặc biệt là dọc quốc lộ 6
(đoạn từ Tuần Giáo đi Lai Châu) và quốc lộ 12 (đoạn từ Điện Biên đi Lai Châu),
quốc lộ 4D và quốc lộ 32. Ngoài ra còn rất nhiều điểm trượt đất ở xa các tuyến
quốc lộ và ở các vùng khác. Mức độ ảnh hưởng của tai biến trượt đất rất lớn về
vật chất, tính mạng cũng như tâm lý của các cộng đồng dân cư sinh sống trong
vùng cũng như du khách. Điển hình là điểm trượt cầu Mống Sến xẩy ra nhiều năm và
gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Ngày 30/6/2003 trượt đất - đá xảy ra tại
bản Chu Va 12, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu làm chết một nam và làm bị thương
nặng một nữ du khách người Mỹ. Mới đây một trận trượt đất kinh hoàng xẩy ra vào
đêm 13/9/2004 tại xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai làm chết 23 người.
Nhà nước đã chi gần 15 tỷ đồng để khắc phục sự cố này. Hiện trạng và dự báo
trượt đất được trình bày trên Hình 1.
Các nguyên nhân gây ra trượt đất: Độ dốc sườn
là nguyên nhân chính gây ra trượt đất. Trượt đất thường xảy ra ở các khu vực địa hình có sườn
dốc trên 250 (tập trung trong khoảng 300 đến 450).
Ở các vùng địa hình có sườn dốc 16 - 250, trượt đất xảy ra ít hơn và
có quy mô nhỏ hơn, ở các vùng địa hình có sườn dốc
nhỏ hơn 150,
trượt đất xảy ra rất ít và có nơi hầu như không xảy ra.
Quá trình phong hoá đá gốc là nguyên nhân quan trọng gây trượt đất.
Chuyển động kiến tạo hiện đại biểu hiện dưới dạng động đất và các đứt gãy
hoạt động cũng là một nguyên nhân. Rất nhiều điểm trượt đất liên quan đến các
đứt gãy hoạt động như: Điện Biên - Lai Châu và Tuần Giáo - Tủa Chùa.
Yếu tố thuỷ văn với hệ thống dòng chảy trên
mặt thường gây ra hiện tượng trượt, sụt ven hồ (nhất là
dọc sông Đà). Nước dưới đất cũng
là yếu tố quan trọng. Các điểm trượt quy mô lớn đều có liên quan tới nước dưới
đất. Chế độ mưa đóng vai trò rất
quan trọng. Trượt đất thường xảy
ra trong phạm vi các khu vực có lượng mưa lớn và gia tăng vào mùa mưa (từ
tháng 5 đến tháng 8 hàng năm). Mật độ
thảm thực vật có ảnh hưởng lớn đến hiện tượng trượt đất. Tại các khu vực
có độ che phủ cao (>50%) hiện tượng trượt đất hầu như không xảy ra. Tại các khu
vực có độ che phủ trung bình (30-50%) thường xảy ra trượt đất quy mô nhỏ và
thưa. Tại các khu vực có độ che phủ thấp (<30%)
hiện tượng trượt đất xảy ra mạnh mẽ nhất. Yếu tố thế nằm đá gốc chi phối nhiều
điểm trượt đất. Trượt đất dễ xảy ra ở các vùng hướng dốc địa hình trùng với
hướng dốc của đá gốc hoặc hướng dốc của mặt phân phiến. Đặc điểm cơ lý và cấu tạo đá gốc cũng có vai trò nhất định gây ra
trượt đất. Tại những khu vực đá gốc gắn kết yếu, bị vỡ vụn, bở rời, hiện tượng
trượt đất xảy ra mạnh hơn. Hoạt động
nhân sinh gián tiếp hoặc trực tiếp cũng gây ra trượt đất như chặt phá
rừng, canh tác nông nghiệp làm giảm độ che phủ rừng, xây dựng hồ chứa làm thay
đổi mực nước dưới đất, xây dựng đường giao thông làm thay đổi thế cân bằng sườn,
bắn mìn khai thác khoáng sản. Thí dụ, năm 1968 đã xẩy ra một khối trượt 300.000
m3 ở mỏ Cam Đường, Lào Cai. Tại một số điểm trượt đất có thể thấy tai
biến xảy ra do tác động của một tổ hợp các nguyên nhân.
4. Đá đổ, đá rơi
Đây là một dạng tai biến địa chất thường xuyên xảy ra ở Tây Bắc Bộ. Vị trí
các điểm đá đổ, đá rơi thường ở taluy đường ô tô, tại các vách dốc phát triển
trong các thành tạo đá vôi, granit và các đá phun trào. Tai biến này cũng rất
nguy hiểm, gây chết người, thiệt hại, ách tắc giao thông. Ngày
5. Tai biến do trường bức xạ phóng xạ tự nhiên
Các khu vực có cường độ chiếu xạ > 2 mSv/năm phân bố ở phía bắc tỉnh Lai
Châu, đông bắc thị xã Điện Biên, phía nam thị xã Sơn La và
dải Mường Tè - Điện Biên. Chúng cũng thể hiện bằng một số điểm dị thường, một số
mỏ chiếm diện tích không lớn, phân bố không liên tục trong một số vùng như Phong
Thổ - Lao Cai - Than Uyên - Bảo Thắng - Mường La - Nghĩa Lộ - Bắc Yên; Ba Vì -
Sơn Tây theo hướng TB - ĐN. Dị thường Phong Thổ có dạng dải gồm nhiều cụm dị
thường rộng 5-15 km kéo dài từ biên giới Việt-Trung qua Nậm Xe - Tam Đường tới
Đông Pao, trong đó có nhiều dị thường tốc độ chiếu xạ cao hơn 1000 mR/h-3000 mR/h. Những dị thường này có tổng liều chiếu xạ tự
nhiên rất cao. Ở đây cũng phát triển các dải dị thường phóng xạ tự nhiên với
liều chiếu xạ trung bình là 11,4-114 mSv/năm tương đương với cường độ 150-1700 mR/h (phông 0,7 mSv/năm). Các điểm có liều chiếu xạ
cao > 5 mSv/năm chủ yếu tập trung ở các vùng Phong Thổ, Lào Cai - Than Uyên, Bảo
Thắng - Mường La, Ba Vì, Phú Thọ liên quan đến các đá granit và trầm tích phun
trào…
6. Tai biến do thiếu Iođ gây bệnh bướu cổ và đần độn
Trên địa bàn Tây Bắc Bộ có 4 vùng môi trường địa chất chính gây bệnh biếu
cổ và đần độn do thiếu Iođ: vùng lớn nhất trùng với diện phân bố của đá vôi hệ
tầng Đồng Giao, kéo dài từ nam Phong Thổ (Lai Châu) đến nam Yên Thuỷ (Hoà Bình).
Vùng thứ hai nằm ở phía đông nam Phù Yên với sự phân bố khá rộng đá carbonat.
Vùng thứ ba ở xung quanh Mù Cang Chải bao gồm các đá trầm tích và phun trào hỗn
hợp. Cuối cùng là vùng Tam Đường - Than Uyên với sự phát triển các đá magma xâm
nhập hỗn hợp. Ngoài ra còn có các diện tích hẹp ở bắc Mường Tè, tây Mường Tè và
ĐN Sìn Hồ.
7. Lũ quét, lũ ống
Quan niệm lũ quét và lũ ống của tác giả như sau: lũ quét là sự chảy dồn nước
nhanh vào một vùng tương đối rộng (tới vài chục km2) thường quét theo
các triền sông, suối với cường độ mạnh xảy ra bất ngờ, duy trì
trong một thời gian ngắn và có sức tàn phá rất mạnh, quét sạch hoặc phá huỷ hầu
như mọi vật trên bề mặt mà dòng nước chảy qua. Lũ ống là sự chảy dồn nước bộc
phát đột ngột từ cao xuống thấp với tốc độ rất cao vào một thung lũng suối nhỏ
hoặc một khe hẻm có quy mô nhỏ hơn (từ vài trăm mét đến vài km) theo sườn rất
dốc, tạo thành một khối nước hình ống, thời gian xẩy ra rất ngắn
và sức tàn phá cũng rất mạnh. Lũ quét và lũ ống cực kỳ nguy hiểm cho tính mạng
của nhân dân, nhất là khi chúng xảy ra vào ban đêm.
Lũ quét là một dạng tai biến nguy hiểm xếp hàng thứ ba sau động đất, trượt đất. Lũ
quét rất thường xuyên xẩy ra nhiều vị trí ở Tây Bắc Bộ, gây nhiều thiệt hại về
người và tài sản của nhân dân. Có nhiều vị trí lũ quét xẩy ra liên tiếp nhiều
năm trên diện rộng.
Nguyên nhân gây ra lũ quét do mưa to nhiều ngày liên tiếp với cường độ
mạnh, mưa nhiều ngày liên tục và kết thúc bằng một trận mưa cường độ cao ở những
nơi có địa hình dốc, đặc biệt ở những nơi mà địa hình hai phía thung lũng đều
dốc, ở những khu vực đồi núi trọc, thực vật ít thì sự tàn phá của lũ quét càng
mạnh và tần suất càng cao. Khi lũ quét xẩy ra trong khu vực có các thành tạo bị
vỡ vụn, bị phong hoá mạnh thì thường kèm theo dòng bùn đá rất nguy hiểm (điển
hình là trận lũ quét kèm dòng bùn đá ở Nậm Coóng, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu).
Tây Bắc Bộ được đánh giá là một vùng có khả năng phát sinh lũ quét lớn nhất
so với các khu vực khác thuộc lãnh thổ Việt Nam do các đặc điểm về địa hình, địa
mạo, thổ nhưỡng, khí hậu cộng với các đặc điểm canh tác truyền thống phát rẫy
làm nương ở các lưu vực sông, khai thác chặt phá rừng đầu nguồn.
Lũ ống xảy ra ít hơn lũ quét, quy mô ảnh hưởng hẹp, nhưng
cũng là dạng TBĐC rất nguy hiểm. Về mặt quy mô lũ
ống xẩy ra trên diện hẹp, về mặt thời gian nó xẩy ra tức thời do mưa to đột ngột
ở thượng nguồn, nước dồn nhanh vào một thung lũng nhỏ; cũng có trường hợp lũ ống
xẩy ra do vỡ đập tự nhiên ở thượng nguồn suối. Hiện trạng và dự báo lũ quét, lũ
ống được trình bày trên Hình 2.
III. CÁC BIỆN
1. Các biện pháp chung
Cần tiến hành một số chương trình quốc gia dài hạn về điều tra TBĐC từ mức
tổng quan đến mức chi tiết, lập các bản đồ TBĐC từ tỉ lệ 1: 500.000 đến tỉ lệ
1:250.000 và tỉ lệ 1:50.000, trong đó cần chú ý đặc biệt đến công tác quan trắc
và dự báo để việc phòng chống, giảm thiếu thiệt hại có hiệu quả cao nhất. Chương
trình này không nên dừng ở mức cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả khi tai biến
đã xẩy ra mà nên đi trước một bước về vấn đề phòng tránh thông qua các dự báo
của các công trình điều tra TBĐC nói riêng và tai biên thiên nhiên nói chung.
Cần có sự hợp tác nghiên cứu giữa các nhà khoa học trong và ngoài nước về tất cả
các dạng TBĐC. Cần tiến hành phổ cập kiến thức cơ bản, nâng cao nhận thức về
TBĐC cho nhân dân vùng có tiềm năng xẩy ra các TBĐC để nhân dân tự mình chủ động
có những biện pháp phòng chống TBĐC và xử lý trong tình huống khi TBĐC xẩy ra.
Không nên có tư tưởng chỉ trông chờ vào chính quyền địa phương và Trung ương,
tức là phải tiến tới xã hội hóa công tác phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại do
TBĐC gây ra. Đối với một số dạng TBĐC thì biện pháp phòng tránh tốt nhất là né
tránh (không xây dựng các khu dân cư tập trung ở các vị trí thường xuyên xẩy ra
trượt đất và lũ quét). Nhưng đối với đa số các TBĐC thì cần tuân theo phương
châm “sống chung cùng tai biến địa chất”, nhưng phải có các biện pháp đề phòng
cần thiết như xây nhà kiên cố có mức kháng chấn cần thiết...
2. Các biện pháp cụ thể
a. Đối với tai biến động đất: Cần có các bản đồ dự báo động đất chính xác để quy
hoạch từng vùng lãnh thổ. Không thiết kế xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở
quy mô to và không quy hoạch xây dựng khu dân cư tập trung dọc các đới dự báo có
chấn áp cao. Các công trình xây dựng dân dụng, trụ sở các cơ quan nhà nước cần
phải có các biện pháp kỹ thuật kháng chấn với cấp cao (7 độ Richter) phù hợp với
mức độ dự báo cho các khu vực cụ thể, nhà dân không nên thiết kế nhiều tầng cao,
hạn chế tối thiểu kết cấu bê tông cốt thép, nếu có kết cấu thì nhất thiết phải
có kết cấu khung liên kết với nhau. Các đô thị Điện Biên Phủ, Lai Châu, Lào Cai,
Yên Bái, Hoà Bình có nguy cơ ảnh hưởng của động đất cao. Riêng đô thị Điện Biên
Phủ có nguy cơ động đất cao nhất. Không nên tập trung xây dựng ở các vùng trùng
với hình chiếu bề mặt đứt gãy Điện Biên - Lai Châu. Các công trình thuỷ điện đều
cần có các biện pháp kỹ thuật kháng chấn đến Ms max = 8,0.
b. Đối với đứt gãy hoạt động: Cảnh báo với chính quyền địa phương về vị trí có đứt
gãy hoạt đông để tăng cường đề phòng trượt đất, nứt đất ... có thể xẩy ra, không
xây dựng (hoặc phải có biện pháp phòng chống) đối với các công trình xây dựng
như nhà cửa, cầu, cống... dọc đới đứt gãy hoạt động.
c. Đối với tai biến trượt đất: Cảnh báo
với chính quyền địa phương về vị trí xung yếu có khả năng xẩy ra trượt đất - nứt
đất, khuyến cáo không định cư ở các sườn dốc, dọc các chân núi dốc, dọc các sườn
núi mà đá gốc bị phong hóa mạnh, bị vò nhàu, cà nát, dập vỡ mạnh, trồng các loại
cây phù hợp để tăng cường độ bền vững bề mặt nơi có khả năng xẩy ra trượt đất,
xây các kè đá xi măng để chống trượt tại các vị trí xung yếu nhất... bằng các
biện pháp tổng hợp. Đồng thời xem xét đến việc đẩy mạnh sản xuất các vật liệu
địa kỹ thuật (các lưới thép địa kỹ thuật, các máng tổng hợp địa kỹ thuật, vải
địa kỹ thuật) chế tạo từ hỗn hợp kim loại, vật liệu composit, các chất dẻo hoá
học, trộn bột than xen trồng cỏ, cây để chống trượt đất và nứt đất. Ở các khối
trượt do nguyên nhân nước mặt và nước ngầm cần có biện pháp thoát nước triệt để
kết hợp dùng vật liệu địa kỹ thuật, việc xây tường, kè chắn bằng bê tông cốt
thép, định vị các giỏ đá dọc cung trượt, khoan cọc nhồi, đóng cọc tre gỗ...
nên tiến hành ở mức tối thiểu vì các biện pháp này hiệu quả không cao nhưng rất
tốn kém. Riêng tại điểm trượt đất cầu Mống Sến II thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào
Cai các tác giả đề xuất nên chuyển vị trí quốc lộ 4D sang vị trí khác (xem Hình
3) vì tại đó hầu như hàng năm đêù xẩy ra trượt đất mà các biện pháp chống trượt
đã thi công đều tỏ ra không hiệu quả. Điểm trượt đất đồi Ông Tượng ở thị xã Hòa
Bình và điểm trượt đất tại khu cơ quan UBND tỉnh Sơn La phải gia cố, tăng cường
biện pháp chống trượt bổ sung vì nguy cơ xẩy ra trượt vẫn còn rất cao.
d. Đối với tai biến lũ quét: Các biện pháp phòng tránh là cảnh báo chính quyền địa
phương về các vị trí xung yếu về mặt địa chất, nơi dễ xẩy ra lũ quét và nếu xẩy
ra sẽ gây nhiều thiệt hại, không quy hoạch định cư tại các vị trí xung yếu đó,
tăng cường biện pháp bảo vệ rừng đầu nguồn, trồng thêm cây cối để hạn chế lũ
quét trở thành lũ bùn đá, dòng bùn, di dân ra khỏi những nơi thường xẩy ra lũ
quét, có sự quan sát theo dõi thường xuyên vào mùa mưa... Dọc thung lũng Nậm Na
nói riêng và dọc đứt gãy Điện Biên - Lai Châu nói chung khuyến cáo nhà dân nên
xây dựng ở các vị trí cao hơn mức lũ quét hàng năm (nhất là đoạn từ Mường Lay
đến thị xã Lai Châu).
e. Đối với tai biến bức xạ phóng xạ tự nhiên: Khuyến cáo nhân dân sống trong vùng biết những nơi
nào không nên xây dựng nhà cửa ở đó, nơi nào không được khai thác đá, đất làm
gạch xây nhà. Cần di dời dân sống trên khu vực có liều chiếu phóng xạ cao >
5mSv/năm ví dụ như tại các khu mỏ Nậm Xe, xung quanh bãi thải mỏ đồng Sinh
Quyền, khu vực đất hiếm thị trấn Mường Hum... Tại những vùng mỏ, cần có biện
pháp an toàn phóng xạ cho những người làm trực tiếp ở mỏ. Cần có biện pháp chống
gây ô nhiễm sang vùng khác. Cần có những phương án phục hồi môi trường, cân bằng
sinh thái, cụ thể phải quy hoạch bãi thải. Nghiêm cấm không để tình trạng khai
thác thổ phỉ, khai thác bừa bãi tại những vùng mỏ có chứa phóng xạ - đất hiếm.
h. Đối với tai biến địa hóa sinh thái: Một số biện pháp sơ bộ
gồm:
không quy hoạch định cư ở những nơi có các dị thường các nguyên tố độc hại
cho sức khoẻ con người (thủy ngân, arsen, chì-kẽm, phóng xạ,...), di dân khỏi
những nơi nguy hiểm (nơi có hàm lượng arsen, thủy ngân cao,...), ở các vùng nguy
cơ thiếu iođ cần vận động nhân dân gia tăng dùng muối iođ thường xuyên nhằm
tránh bệnh bướu cổ và đần độn.
Tại vùng xã Hưng Thi, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình và một số xã lân cận
(bao gồm cả các xã thuộc huyện Kim Bôi) cần tiếp tục nghiên cứu một số cách
nghiêm túc nguyên nhân gây bệnh tê-say gây chết nhiều người trong các năm qua,
đặc biệt cần quan tâm nghiên cứu môi trường địa hóa đất và nước. Tại vùng tây
bắc đập thủy điện Hoà Bình cần nghiên cứu bổ sung hiện tượng cây cối chết do quá
trình rửa lũa axit từ các đá phun trào mafic.
Miền Tây Bắc Bộ là vùng đất
hùng vĩ có nhiều cảnh đẹp, có nhiều danh lam thắng cảnh - di tích lịch sử nổi
tiếng, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Đó còn là vùng đất đầy tiềm
năng phát triển kinh tế - xã hội và chiếm vị trí rất quan trọng trong bình đồ
quy hoạch phát triển của đất nước, là nơi cung cấp điện năng hầu như cho cả
nước. Nhưng Tây Bắc Bộ còn là vùng có tiềm năng xảy ra TBĐC cao nhất Việt
VĂN LIỆU
1. Cao Đăng Dư, Lê Bắc Huỳnh, 2000.
Lũ quét, nguyên nhân và biện pháp phòng tránh. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
2. Võ Công Nghiệp, Đỗ Văn Ái, Hồ Vương
Bính, 1995. Về những tác nhân gây bệnh bướu cổ địa phương xét từ
góc độ địa hoá sinh thái và các biện pháp chế ngự.
Thông tin KHKT Địa chất, 9-11.