ĐẶC TRƯNG PHÂN ĐỚI CẤU TRÚC THẠCH QUYỂN
VIỆT
NAM THEO TÀI LIỆU ĐỊA VẬT LÝ

CAO ĐÌNH TRIỀU1, MAI XUÂN BÁCH1,  V.S. GEYKO2

1Viện Vật lý địa cầu, Viện KH&CN VN, Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội
2Viện Vật lý địa cầu, Viện HLKH Ukraina,Kiev

Tóm tắt: Đặc điểm phân đới cấu trúc thạch quyển lãnh thổ Việt Nam được xem xét trên cơ sở: 1) Xây dựng mô hình vận tốc và dị thường vận tốc truyền sóng dọc P của thạch quyển và manti; 2) Phát hiện các đới đứt gãy sâu là ranh giới vi mảng thạch quyển theo tài liệu trọng lực, từ và phân tích cắt lớp. Kết quả cho thấy:

1. Vận tốc truyền sóng P trung bình của thạch quyển lãnh thổ Việt Nam và kế cận có biểu hiện như sau: lớp vỏ trầm tích là 2,10 - 4,96; lớp vỏ kết tinh là 5,92 - 7,60 km/sec2; lớp dưới vỏ (phần cứng của manti thượng) là 7,85 - 8,00 km/sec2; lớp quyển mềm là 8,00 - 8,20 km/sec2; lớp chuyển tiếp (từ độ sâu 450-470 km đến 650 km) là 9,50 - 10,50 km/sec2; và manti hạ có giá trị vận tốc trung bình sóng dọc P biến đổi trong giới hạn 10,80 - 10,95 km/sec2.

2. Có 3 dạng vỏ Trái đất tồn tại trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam và kế cận là: vỏ lục địa, vỏ đại dương và vỏ chuyển tiếp.

- Các đơn vị cấu trúc chính thuộc miền vỏ lục địa gồm: Đông Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ, Trường Sơn, Kon Tum, Đà Lạt, Cần Thơ, Hà Tiên và Hải Nam.

- Các đơn vị cấu trúc chủ yếu thuộc miền vỏ chuyển tiếp bao gồm: Sông Hồng, Bạch Long Vĩ, Lôi Châu, Châu Giang, Bắc Hoàng Sa, Tri Tôn, Phú Khánh, Hoàng Sa, Trường Sa, Suối Ngà - Trăng Khuyết, Sabah, Sarawak, Vũng Mây, Natuna, Nam Côn Sơn, Côn Sơn, Cửu Long, Phú Quốc và Malaysia.

- Trung tâm biển Đông có đặc trưng vỏ đại dương.


MỞ ĐẦU

Đặc điểm cấu trúc vỏ Trái đất lãnh thổ Việt Nam đã được đề cập khá nhiều trong các công trình của các tác giả trước đây [1-9]. Tuy vậy, việc nghiên cứu về cấu trúc thạch quyển thì còn ít nhà địa chất, địa vật lý Việt Nam quan tâm đến. Năm 2002, trong công trình [7], Cao Đình Triều bước đầu đã sử dụng tài liệu trọng lực nghiên cứu bề dày thạch quyển Việt Nam tại một số tuyến nhất định.

Trong khuôn khổ công trình này, chúng tôi sẽ trình bày một số kết quả nghiên cứu về đặc điểm phân đới cấu trúc thạch quyển lãnh thổ Việt Nam theo các khía cạnh sau:

1. Xây dựng mô hình vận tốc và dị thường vận tốc truyền sóng dọc P của thạch quyển và manti trên cơ sở phép phân tích cắt lớp địa chấn (seismic tomography);

2. Phát hiện các đới đứt gãy sâu là ranh giới vi mảng thạch quyển trên cơ sở phân tích tài liệu trọng lực, từ và phân tích cắt lớp;

3. Phân miền đặc trưng cấu trúc vỏ Trái đất trên cơ sở tài liệu địa vật lý có được.

Việc phân tích cắt lớp địa chấn được tiến hành tại Viện Vật lý địa cầu Kiev thuộc Viện Hàn lâm khoa học Ukraina. Đây là kết quả của chương trình hợp tác khoa học song phương giữa Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Viện Hàn lâm khoa học Ukraina.

Vùng nghiên cứu được khống chế trong phạm vi toạ độ: từ 4o39' đến 23o30' vĩ độ bắc; từ 100o15' đến 117o00' kinh độ đông.


Hình 1. Các mặt cắt vận tốc truyền sóng P thạch quyển và manti

a. Dọc theo 100 độ vĩ bắc; b. 150; c. 200; d. 250.


II. MÔ HÌNH BẤT ĐỒNG NHẤT VẬN TỐC TRUYỀN SÓNG CỦA THẠCH QUYỂN VÀ MANTI LÃNH THỔ VIỆT NAM VÀ KẾ CẬN

Sự phân tích cắt lớp vận tốc truyền sóng dựa trên cơ sở tài liệu động đất đã được các nhà địa chấn trên thế giới đề cập tới từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Kết quả của hướng nghiên cứu này đã làm sáng tỏ nhiều quan điểm về kiến tạo mảng như: chứng minh được sự tồn tại của các đới hút chìm, đới va chạm, đới tách giãn, phát hiện các điểm nóng cũng như các dòng đối lưu trong manti. Đây là những dẫn liệu cơ bản nhất minh chứng cho quá trình địa động lực bên trong Trái đất.

Ở Việt Nam, do còn hạn chế nhiều về mặt kỹ thuật phân tích cũng như số liệu nghiên cứu nên hướng phân tích tài liệu địa chấn trong nghiên cứu phân tích cắt lớp chưa được ứng dụng. Trong khi đó, việc hiểu biết về đặc trưng truyền sóng dọc P cũng như bất đồng nhất về vận tốc truyền sóng dọc trong vỏ Trái đất và manti rất có ý nghĩa trong nghiên cứu động đất cũng như lý giải điều kiện địa động lực và kiến tạo nói chung. Năm 2003, trong khuôn khổ của chương trình hợp tác giữa hai Viện hàn lâm, chúng tôi đã có chuyến công du sang Ukraine và giải quyết nhiệm vụ này đối với lãnh thổ Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu và một số kết quả bước đầu được trình bày sơ bộ sau đây [10-17]:

1. Phương pháp nghiên cứu

Đặc trưng biến đổi vận tốc truyền sóng theo diện có thể được thiết lập, dựa vào mô phỏng sự thay đổi vận tốc truyền sóng trên cơ sở hàm:

  (1)

Ở đây: ,

vớilà độ sâu tới ranh giới phía dưới của các khối thuộc manti (km) và:

  (2)

trong đó: h* {100, 250,400, 650}, H* {250,400,650, 850}, h* và H* là độ sâu tới mặt trên và mặt dưới của các khối tương ứng thuộc manti (km).

Công thức (2) biểu diễn sự phân bố vận tốc trung bình truyền sóng theo diện (theo chiều nằm ngang), mô tả tính phân khối (phân mảng cấu trúc) của manti theo chiều nằm ngang. Mô hình này phù hợp với những gì chúng ta hiểu biết về manti và thuyết kiến tạo mảng.

Mô hình tổng thể vận tốc - độ sâu với: vmin(z) - vận tốc nhỏ nhất, vmax(z) - vận tốc lớn nhất, và vaver(z) - vận tốc trung bình, được thiết lập trên cơ sở các công thức sau đây:

     (3)

trong đó:  là diện tích của khối tại độ sâu ,  là diện tích bề mặt trong hệ toạ độ.

Mô hình này cũng tương tự mô hình Jeffris-Bullen và PREM (Dziewonski and Anderson, 1981) với độ lệch rất nhỏ, sử dụng hàm:

độ sâu.      (4)

ở đây:

 là chỉ số vận tốc theo Jeffris-Bullen.

2. Mô hình vận tốc truyền sóng dọc P của thạch quyển và manti lãnh thổ Việt Nam và kế cận

Mô hình vận tốc truyền sóng dọc P thạch quyển và manti lãnh thổ Việt Nam được tính toán trên cơ sở:

- Công thức (3) đã trình bày ở trên;

- Số liệu được sử dụng là các băng địa chấn ghi thời gian đến của sóng dọc P của tất cả các trận động đất mạnh từ năm 1966 đến 1990 (số liệu của ISC);

 


Hình 2. Các mặt cắt dị thường vận tốc truyền sóng P thạch quyển và manti

a. Dọc theo 100 độ vĩ bắc; b. 150; c. 200; d. 250.


- Phương pháp cắt lớp địa chấn được GS. Geyko [12-13] xây dựng trên cơ sở giải bài toán ngược địa chấn của Taylor bằng cách tính xấp xỉ sóng và phương trình eikon (Taylor's approximation of wave and eikonal equation in inverse seismic problems) [13].

Việc thiết lập mặt cắt vận tốc được thực hiện theo quy trình sau:


nh 3. BiÓu hiÖn ®Æc ®iÓm ph©n miÒn cÊu tróc th¹ch quyÓn l·nh thæ ViÖt Nam
 vµ kÕ cËn theo tµi liÖu träng lùc Bouguer


- Vận tốc truyền sóng được tính toán bắt đầu từ lớp dưới vỏ Trái đất (lấy trung bình cho lãnh thổ Việt Nam là 35 km), lần lượt sau đó là các độ sâu 50, 75, 100, ...(cách nhau 25 km)..., đến 850 km;

- Xây dựng mặt cắt vận tốc thuyền sóng dọc P theo độ sâu tới 850 km. Cũng tương tự, các mặt cắt dị thường vận tốc truyền sóng dọc cho tới độ sâu 850 km cũng được thiết lập;

- Khái niệm về đới chuyển tiếp được hiểu là vùng có giá trị građien thẳng đứng vận tốc truyền sóng cao. Tại vùng này có P đạt cỡ 9,50 đến 10,50 km/s. Ở Việt Nam đới này có độ sâu từ 450-470 km đến 650 km.

Tổng cộng đã dựng được:

- 16 tuyến mặt cắt (từ vĩ độ 10 đến vĩ độ 25) vận tốc truyền sóng dọc P đến độ sâu 850 km;

- 16 tuyến mặt cắt (từ vĩ độ 10 đến vĩ độ 25) dị thường vận tốc truyền sóng P đến độ sâu 850 km;

- 16 sơ đồ phân bố vận tốc truyền sóng P theo diện tại các mức độ sâu: 35 (Moho), 50, 75, 100, 125, ... (cách nhau 25 km)..., 400 km.

- 8 sơ đồ phân bố vận tốc truyền sóng P trung bình đối với các lớp có bề dày: từ 50 đến 100 km, từ 50 đến 250 km, từ 50 đến 400 km, từ 50 đến 650 km, từ 100 đến 250 km, từ 250 đến 400 km, từ 400 đến 650 km và từ 650 đến 850 km.

Mô hình vận tốc truyền sóng dọc P thạch quyển và manti lãnh thổ Việt nam và kế cận được biểu diễn ví dụ trong các hình 1 và hình 2. Trên cơ sở kết quả này chúng ta có thể rút ra một số nhận định sau:

1. Vận tốc truyền sóng P trung bình của vỏ Trái đất biến động trong giới hạn: vận tốc của lớp vỏ trầm tích là 2,10 - 4,96 km/sec2; và của lớp vỏ kết tinh là 5,92 - 7,60 km/sec2.

2. Vận tốc trung bình của P lớp dưới vỏ (phần cứng của manti thượng): 7,85 - 8,00 km/sec2.

3. Lớp quyển mềm có vận tốc sóng P trung bình là 8,00 - 8,20 km/sec2.

4. Vận tốc sóng dọc P đạt giá trị trung bình tại lớp chuyển tiếp (từ độ sâu 450-470 km đến 650 km): 9,50 - 10,50 km/sec2.

5. Manti dưới có giá trị vận tốc trung bình sóng dọc P biến đổi trong giới hạn 10,80 - 10,95 km/sec2.

III. ĐẶC ĐIỂM PHÂN ĐỚI CẤU TRÚC THẠCH QUYỂN LÃNH THỔ VIỆT NAM VÀ KẾ CẬN

Trong khuôn khổ công trình này, nhằm mô tả chung nhất đặc điểm phân đới cấu trúc thạch quyển Việt Nam và kế cận, chúng tôi đi sâu giải quyết một số nhiệm vụ sau đây:

1. Tính phân đới của thạch quyển Việt Nam và kế cận.

2. Một số đơn vị cấu trúc chính vỏ Trái đất lãnh thổ Việt Nam và kế cận được biểu hiện rõ nét trên tài liệu địa vật lý khu vực.

1. Tính phân đới của thạch quyển Việt Nam và kế cận

a. Phương pháp phân tích kết hợp tài liệu trọng lực và cắt lớp địa chấn nghiên cứu tính phân đới cấu trúc thạch quyển

Đặc trưng phân đới cấu trúc thạch quyển lãnh thổ Việt Nam và kế cận được tìm hiểu trên cơ sở các phép phân tích tài liệu địa vật lý khu vực sau:

1. Nâng trường dị thường trọng lực lên nửa không gian phía trên. Nhiệm vụ của phép phân tích này là nhằm phân chia các đơn vị cấu trúc của thạch quyển. Chẳng hạn, khi nâng trường trọng lực lên độ cao 150 km thì các cấu trúc nông bị triệt tiêu tối đa và chỉ còn lại chủ yếu ảnh hưởng của bề mặt ranh giới phía dưới của thạch quyển [3,5,6].

2. Tính toán građien ngang dị thường trọng lực ở các độ sâu khác nhau theo diện và theo mặt cắt. Các tính toán này nhằm phát hiện và phân loại mức độ ảnh hưởng của các đứt gãy [4, 6, 7]. Trong công trình này, nhằm phát hiện các cấu trúc cũng như các đứt gãy sâu, chúng tôi tiến hành xây dựng sơ đồ và mặt cắt các thành phần građien đến độ sâu tối đa là 200 km.

3. Xây dựng véctơ thành phần dị thường trọng lực theo trục X, Y và Z, trong đó quan trọng nhất là thành phần Z vì nó biểu hiện trạng thái ảnh hưởng của đứt gãy tới độ sâu nào đó [4,7]. Việc tính toán Z cũng được tiến hành tới độ sâu nghiên cứu 200 km.

4. Phân chia các đơn vị cấu trúc thạch quyển trên cơ sở tài liệu trọng lực và vận tốc truyền sóng dọc P. Các tài liệu nhằm phục vụ nhiệm vụ này là trường trọng lực và bất đồng nhất truyền sóng P được phân tích đến độ sâu nghiên cứu.


Hình 4. Sơ đồ véctơ thành phần Z ở độ cao nâng trường trọng lực lên 50 km
 lãnh thổ Việt
Nam và kế cận


b. Đơn vị cấu trúc chính của thạch quyển lãnh thổ Việt Nam và kế cận

Hình 5. Sơ đồ phân miền cấu trúc thạch quyển lãnh thổ Việt Nam và kế cận

Theo Cao Đình Triều và Phạm Huy Long [8] thì: trong Kainozoi muộn, khu vực Đông Nam Á là phần đông nam mảng thạch quyển Âu-Á, phía đông giáp với mảng thạch quyển Thái Bình Dương qua đới hút chìm Guinea - Philippine, phía tây và nam giáp với mảng thạch quyển Ấn - Úc qua đới hút chìm Miến Điện - Nicobar - Sumba và đới va chạm Timor. Ranh giới giữa mảng thạch quyển Thái Bình Dương và mảng thạch quyển Ấn - Úc là đứt gãy trượt bằng trái Sorong. Trong giai đoạn này Đông Nam Á được chia làm 2 phần:

1. Phần rìa kéo dài từ Miến Điện qua Andaman - Sumatra - Java - Timor - Halmahera - Philippine - Đài Loan có chế độ rìa lục địa tích cực. Đới rìa lục địa tích cực này có bề rộng 500 - 700 km, được cấu tạo bởi móng cổ trước Kainozoi muộn, bị họat hóa mạnh mẽ trong Kainozoi muộn (phần trong) và các thành tạo bồi kết kiến tạo tuổi Kainozoi muộn (ở phần rìa).


2. Phần còn lại của Đông Nam Á trong giai đoạn này có chế độ nội mảng. Việt Nam chiếm vị trí trung tâm của phần nội mảng này và có chế độ nâng khối tảng kèm phun trào bazan mạnh mẽ ở các đới Đà Lạt, Kon Tum và tạo núi khối tảng ở phần lục địa còn lại, trong phạm vi rìa tây biển Đông có chế độ rìa lục địa thụ động.

Sự phân tích tài liệu trọng lực và cắt lớp địa chấn của chúng tôi trong công trình này cho phép phân chia thạch quyển lãnh thổ Việt Nam và kế cận ra làm 3 vi mảng mà ranh giới giữa chúng là các đứt gãy sâu cấp II (cấp I Việt Nam): Sông Hồng, Hải Nam - Natuna và Ba Chùa (Three Pagodas). Đó là các vi mảng (Hình 5): Nam Trung Hoa - Đông Bắc Bộ - Borneo; Shan – Inđosinia và Malaysia - Sumatra.

Các đới đứt gãy sâu xuyên thạch quyển: Sông Hồng, Hải Nam - Natuna và Ba Chùa được biểu hiện rõ nét bởi các đặc điểm sau:

- Phân chia khác biệt miền trường dị thường trọng lực (Hình 3 và 4) và trùng với dải dị thường cực đại thành phần Z được nâng lên độ cao 50 và 150 km. Đứt gãy Sông Hồng là ranh giới giữa miền trường Tây Bắc Bộ - miền trường Trường Sơn (có giá trị trung bình -40 ¸ -50 mGal) về phía tây nam và miền trường Đông Bắc Bộ - Trũng Sông Hồng (có giá trị trung bình -4 ¸ -20 mGal) về phía đông nam. Cũng tương tự như vậy, trường trọng lực nằm về phía tây của đứt gãy Hải Nam - Natuna cũng có giá trị âm lớn (có thể đạt -45 mGal) trong khi giá trị này là dương tương đối lớn tại cấu trúc phía đông của đứt gãy. Đứt gãy Ba Chùa là ranh giới giữa hai miền dị thường âm về phía đông bắc và dương về phía tây nam của đứt gãy.

- Ba đứt gãy sâu xuyên thạch quyển này cũng có biểu hiện là ranh giới của đơn vị cấu trúc thạch quyển và manti về sự khác biệt vận tốc truyền sóng dọc P và dị thường vận tốc truyền sóng dọc (Hình 1 và 2).

Vận tốc truyền sóng dọc P và dị thường vận tốc truyền sóng dọc có giá trị thay đổi rõ rệt từ vi mảng Nam Trung Hoa - Đông Bắc Bộ - Borneo sang vi mảng Shan – Inđosinia và vi mảng Malaysia - Sumatra (Hình 1 và Hình 2).

2. Một số đơn vị cấu trúc chính vỏ Trái đất lãnh thổ Việt Nam và kế cận được biểu hiện rõ nét trên tài liệu địa vật lý khu vực

Chỉ tiêu phân định các đơn vị cấu trúc chính vỏ Trái đất lãnh thổ Việt Nam và kế cận là dựa trên cơ sở:

1. Sự khác biệt về đặc trưng cấu trúc của: trường trọng lực; các thành phần trường dị thường theo các trục X,Y,Z; građien trường trọng lực ở các mức biến đổi khác nhau cho tới 200 km độ cao [3,6].

2. Trường từ cũng như các thành phần biến đổi của trường từ có sự khác biệt của đơn vị cấu trúc này so với đơn vị cấu trúc khác [3,4].

3. Sự thay đổi vận tốc truyền sóng dọc và dị thường vận tốc truyền sóng dọc nhận được qua phương pháp phân tích cắt lớp đia chấn [10-16).

4. Mối quan hệ giữa tài liệu trọng lực và tài liệu từ thông qua thiết lập hệ số Poisson khu vực nghiên cứu ở các mức: trên bề mặt, ở độ sâu 10 km và ở độ sâu 20 km [3].

Trong khuôn khổ công trình này, chúng tôi tiến hành xác lập đặc trưng phân đới cấu trúc theo: đặc điểm vỏ Trái đất (phân định theo vỏ lục địa, vỏ đại dương và vỏ chuyển tiếp) và tách ra các đơn vị cấu trúc có đặc trưng chung nhất về biểu hiện trên trường trọng lực, trường từ và vận tốc truyền sóng.

Cũng cần nói rằng, vấn đề phân chia các đơn vị cấu trúc vỏ Trái đất chỉ mang tính tương đối theo khái niệm đồng nhất tương đối về đặc điểm trường. Trong nhiều trường hợp, các miền trường được phân chia này chỉ phản ánh đặc điểm phân đới cấu trúc vỏ Trái đất có biểu hiện rõ nét trong hiện tại song chịu ảnh hưởng kế thừa của các cấu trúc cổ. Tài liệu được sử dụng trong nghiên cứu này là tài liệu khu vực nên các đơn vị cấu trúc được phân chia ở đây cũng chỉ mang tính đại diện chung nhất. Tuy vậy chúng tôi cũng mạnh dạn công bố để các nhà địa chất và kiến tạo tham khảo.

Đặc trưng phân miền cấu trúc vỏ Trái đất lãnh thổ Việt Nam và kế cận được biểu diễn trong hình 5. Các kết quả này cho thấy:

1. Có biểu hiện 3 dạng vỏ Trái đất trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam là: vỏ lục địa, vỏ đại dương và vỏ chuyển tiếp.

2. Các đơn vị cấu trúc chính thuộc miền vỏ lục địa gồm: Đông Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ, Trường Sơn, Kon Tum, Đà Lạt, Cần Thơ, Hà Tiên và Hải Nam.

3. Các đơn vị cấu trúc chủ yếu thuộc miền vỏ chuyển tiếp bao gồm: Sông Hồng, Bạch Long Vĩ, Lôi Châu, Châu Giang, Bắc Hoàng Sa, Tri Tôn, Phú Khánh, Hoàng Sa, Trường Sa, Suối Ngà - Trăng Khuyết, Sabah, Sarawak, Vũng Mây, Natuna, Nam Côn Sơn, Côn Sơn, Cửu Long, Phú Quốc và Malaysia.

4. Phần diện tích còn lại thuộc Trung tâm biển Đông có biểu hiện của một đơn vị cấu trúc vỏ đại dương.

KẾT LUẬN

Các kết quả nghiên cứu trên đây của chúng tôi cho phép rút ra một số kết luận sau:

1. Vận tốc truyền sóng P trung bình của thạch quyển lãnh thổ Việt Nam và kế cận có biểu hiện như sau: lớp vỏ trầm tích là 2,10 - 4,96; lớp vỏ kết tinh là 5,92 - 7,60 km/sec2; lớp dưới vỏ (phần cứng của manti thượng) là 7,85 - 8,00 km/sec2; lớp quyển mềm là 8,00 - 8,20 km/sec2; lớp chuyển tiếp (từ độ sâu 450-470 km đến 650 km) là 9,50 - 10,50 km/sec2; và manti dưới có giá trị vận tốc trung bình sóng dọc P biến đổi trong giới hạn 10,80 - 10,95 km/sec2.

2. Có 3 dạng vỏ Trái đất tồn tại trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam và kế cận là: vỏ lục địa, vỏ đại dương và vỏ chuyển tiếp.

- Các đơn vị cấu trúc chính thuộc miền vỏ lục địa gồm: Đông Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ, Trường Sơn, Kon Tum, Đà Lạt, Cần Thơ, Hà Tiên và Hải Nam.

- Các đơn vị cấu trúc chủ yếu thuộc miền vỏ chuyển tiếp bao gồm: Sông Hồng, Bạch Long Vĩ, Lôi Châu, Châu Giang, Bắc Hoàng Sa, Tri Tôn, Phú Khánh, Hoàng Sa, Trường Sa, Suối Ngà - Trăng Khuyết, Sabah, Sarawak, Vũng Mây, Natuna, Nam Côn Sơn, Côn Sơn, Cửu Long, Phú Quốc và Malaysia.

- Trung tâm biển Đông có đặc trưng vỏ đại dương.

VĂN LIỆU

1. Boot M.H., 1970. The use of rapid digital computing methods for direct gravity interpretation of sedimentary basins. J. Geophys. Res. Austra. Soc., p. 63 - 67.

2. Cao Dinh Trieu, 1995. New results about structure of Earth’s crust in Việt Nam. J. of Geology, B/5-6: 331-340, Nội.

3. Cao Đình Triều, 1998. Phân vùng cấu trúc lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở trường trọng lực và từ. TC Các Khoa học về Trái đất, 20/4: 304-313, Hà Nội.

4. Cao Đình Triều, Nguyễn Danh Soạn, 1998. Hệ thống đứt gãy chính lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở phân tích kết hợp tài liệu trọng lực, từ và ảnh vệ tinh. TC Địa chất, A/247: 17-27, Hà Nội.

5. Cao Đình Triều, Đinh Văn Toàn, 1999. Mô hình cấu trúc vỏ Trái đất lãnh thổ Việt Nam và kế cận trên cơ sở phân tích tài liệu trọng lực. Tuyển tập BCKH tại HNCN biển toàn quốc lần thứ IV, 854-863, Hà Nội.

6. Cao Đình Triều, 2000. Trọng lực và phương pháp thăm dò trọng lực. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 276 tr.

7. Cao Đình Triều, 2002. Về mô hình mật độ thạch quyển lãnh thổ Việt Nam và kế cận dọc một số tuyến đặc trưng. TC Địa chất, A/270: 23 - 31, Hà Nội.

8. Cao Đình Triều, Phạm Huy Long, 2002. Kiến tạo đứt gãy lãnh thổ Việt Nam, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 208 tr.

9. Cao Dinh Trieu, 2003. Deep structure, recent dynamics and seismic activity in Red River Fault Zone in Vietnam. J. of Geodesy and Geodynamics, 23/1: 93-102, Beijing.

 10. Geiko V.S., 1985. Conditions for a unique solution of a unidimensional, inverse kinematic problem. Dokl. AN SSSR, 282: 827-832 (in Russian).

11. Geiko V.S., 1993. Concrete conditions for the unidimensional kinematic problem of seismics. Geofiz. zhurn, 15/3: 27-50, 15/6: 31-43. (in Russian).

12. Geiko V.S., 1997. Inversion of seismics travel-time curve as a problem of moment. Geophys. J., 7: 39-58.

13. Geiko V.S., 1998. Taylor's approximation of wave and eikonal equation in inverse seismic problems. Geophys. J., 17 : 465-493.

 14. Goldin S.V. and Suvorov V.D., 1975. Analytical condition of the travel-time curve of reflected wave. Dokl. AN SSSR, 222: 825-828. (in Russian).

 15. Romanov M.E. and Alekseev A.S., 1980. A characteristic method for numerical solution of the inverse kinematic seismic problem. Geophys. J., 48 : 173-180.

 16. Sambridge M. and Snieder R., 1993. Applicability of ray perturbation theory to mantle tomography. Geophys. Res. Lett., 20 : 73-76.

 17. Spakman W., 1991. Delay-time tomography of the upper mantle below Europe, the Mediterranmean and Asia minor. Geophys. J., 107: 309-322.