PHÂN VÙNG ĐỘNG ĐẤT KHU VỰC BIỂN ĐÔNG VIỆT
PHẠM VĂN THỤC, NGUYỄN THỊ KIM THANH
Phân viện
Hải dương học tại Hà Nội, Viện KH&CN VN,
Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội
Tóm tắt: Tài liệu động đất khu vực biển Đông Việt Nam được
thu thập từ năm 1524 đến 2002 gồm 231 trận động đất được coi là danh mục động
đất đầy đủ nhất cho đến nay ở nước ta. Trong số kể trên có 13 trận theo tài liệu
lịch sử từ năm 1524 đến 1900 và 218 trận được quan sát bằng mạng lưới các trạm
trên thế giới cũng như điều tra thực địa trên lãnh thổ Việt Nam. Sự phân bố các
tâm động đất cho thấy đứt gẫy chạc ba á kinh tuyến tây biển Đông đã chia khu vực
biển Đông thành 3 phần có những đặc điểm kiến tạo, kèm theo là 3 vùng động đất,
với các đặc trưng kiến tạo và địa chấn khác nhau.
Đồ thị lặp lại của động đất có dạng log N = -0,76 M + 5,16. Bản đồ phân
bố năng lượng cho thấy một diện tích phía nam biển Đông có năng lượng rất yếu.
Những tính toán cho thấy năng lượng trung bình cho một năm toàn khu vực biển
Đông là 2,25.1020 erg, xấp xỉ bằng 1/4 so với năng lượng động đất đã
xẩy ra trên đất liền của Việt
Với diện tích trên 1 triệu km2, vùng biển Đông Việt Nam có một
tiềm năng to lớn về kinh tế cùng với một vị trí xung yếu về quốc phòng, cho nên
trong nhiều năm qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về kiến tạo, địa chất,
địa vật lý, sóng thần từ các động đất phía đông biển Đông và núi lửa khu vực Nam
Trung Bộ..., nhưng các công trình nghiên cứu về động đất hầu như không có. Sự
hình thành và phát triển ngành công nghiệp dầu khí nói riêng cũng như ngành công
nghiệp của cả nước hiện nay đang đòi hỏi có sự nghiên cứu về tác động của động
đất đối với các công trình công nghiệp.
Trên bình đồ chung, khu vực biển Đông nằm giữa các mảng mà ranh giới giữa
chúng là các đới động đất mạnh: phía bắc và đông bắc là mảng Âu-Á, phía đông là
mảng biển Philippines, xa hơn nữa về phía đông bắc là mảng Thái Bình Dương, về
phía tây nam là mảng Ấn-Úc. Khu vực biển Đông chịu sự tác động của các lực từ
các mảng thạch quyển đó một cách đồng thời. Trên hình 1 trình bầy cấu trúc các
mảng bao quanh khu vực Nam Trung Quốc và biển Đông (hình nhỏ) và các chấn tiêu
động đất quan sát được từ ngày 16/10/1960 đến ngày 17/12/1983 (hình lớn) (U.S.
Department of the Interior/Geological Survey). Trong vòng khoảng 23 năm đã ghi
nhận được 17135 động đất có chấn cấp M = 4-9 và giá trị độ sâu chấn tiêu từ 0
đến 200 km.
Khu vực nghiên cứu phân vùng động đất gồm vùng biển Đông và ven bờ (j =
4,5-23,5o B; l = 100-118oĐ) là một khu vực có chế độ hoạt động động đất khá
thấp nếu so với các khu vực xung quanh (Hình 1).
I. SƠ LƯỢC VỀ KIẾN TẠO KHU VỰC
Biển Đông Việt Nam là một trong nhiều biển rìa của đai hội tụ kiểu ứng suất
thấp Tây Thái Bình Dương, nơi tập trung đến 75% số biển rìa của Trái đất có vỏ
kiểu đại dương như các đại dương thực thụ, nhưng hoạt động tách giãn, mở rộng
đáy đã ngừng từ lâu. Thực tế biển rìa này hình thành và phát triển dưới sự chi
phối của một loạt các yếu tố từ dưới sâu (lớp manti trên) đến các mảng thạch
quyển liên quan với đặc trưng là kiến tạo nội mảng với ưu thế của các tác nhân
này hay tác nhân khác có thể thay đổi theo thời gian.
Vỏ đại dương biển Đông Việt Nam bắt đầu hình thành dưới dạng các tách giãn
kiểu rift trên một miền trước đó không lâu là lục địa thuộc rìa của một biển
Đông cổ Mesozoi và vỏ đại dương biển Đông đã xuất hiện cách đây trên 40 triệu
năm, sau đó kết thúc vào thời điểm cách đây 16 tr. năm. Trong thời gian này,
biển Đông chịu ít nhất là 3 lần tạo rift và 2 lần tách giãn đáy kể từ Creta sớm,
các giai đoạn rift và theo đó là các giai đoạn hoạt động về nhiệt bắt đầu vào
Creta muộn, Eocen muộn và Miocen sớm [1, 6, 11].
Đồng thời với sự mở rộng vỏ đại dương Kainozoi, vỏ đại dương cổ Mesozoi bị
thu hẹp dần diện tích bằng sự hút chìm xuống dưới các mảng vỏ lục địa Borneo,
Palawan ở đông nam biển Đông cho đến khi mất hẳn. Sự mất hẳn này của vỏ đại
dương Mesozoi cổ một phần còn bị thúc đẩy bởi quá trình quay ngược chiều kim
đồng hồ của mảng lục địa
Vùng biển Đông Việt
- Miền tách giãn rìa lục địa tạo
địa hào dạng bậc có phương đông bắc chủ yếu thuộc thềm lục địa Đông Nam Trung
Quốc và Bắc Việt
- Miền trượt bằng - tách giãn hoặc
tách giãn - trượt bằng (các vùng trũng Sông Hồng - Yinggehai
...).
- Trôi trượt - tách giãn phá huỷ
vỏ lục địa (vùng Trường Sa, Hoàng Sa).
- Nén ép hội tụ (đông biển Đông -
Tây
- Miền vỏ đại dương Kainozoi trung
tâm biển Đông.
Hệ phá huỷ kiến tạo cơ bản của
khu vực là cấu trúc đứt gẫy chạc ba (triple junction) Nam Hải
Trong bình đồ cấu trúc, đứt gẫy chạc ba này đã chia khu vực nghiên cứu tại
biển Đông thành 3 vùng có những đặc trưng kiến tạo và động đất hoàn toàn khác
nhau liên quan tới 3 vi mảng chính: Nam Trung Hoa - Bắc Biển Đông (vùng I), vùng
trũng sâu biển Đông (vùng II), và rìa phía đông lục địa Sunda thuộc vùng ven bờ
Trung Bộ Việt Nam (vùng III). Điều này cho thấy các cấu trúc kiến tạo chính ở
vùng biển Việt
II. PHÂN BỐ ĐỘNG ĐẤT KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Danh mục động đất khu
vực biển Đông Việt Nam và ven bờ được thu thập từ năm 1524 cho đến 2002 (với
giới hạn tại rìa phía đông là kinh độ 118oĐ, phía nam là vĩ độ 4,5oB,
phía tây và bắc giới hạn bởi ven bờ nước ta và phía nam Trung Quốc với những
động đất xẩy ra trên đất liền nằm cách ranh giới biển - đất liền khoảng 50 km)
gồm 231 trận động đất, trong số này có
13 trận ghi theo các
tài liệu lịch sử xẩy ra từ năm 1524 tới 1882 với chấn cấp lớn nhất M = 7,5 xẩy
ra năm 1605, và 218 trận có chấn cấp từ 6,8 đến không xác định, với 7 trận có
chấn cấp lớn hơn hoặc bằng 6; 50 trận có chấn cấp M ³ 5; 64 trận có M ³ 4 và 48 trận có M > 3
(trong số này có 2 trận động đất nằm giáp ven biển Nam Trung Bộ với M = 5,1 xẩy
ra vào những năm 1877 và 1882 với những dấu hiệu cho thấy chúng có nguồn gốc
hoạt động núi lửa). Nhưng nhìn tổng thể, vùng biển Đông Việt Nam và ven bờ là
một vùng động đất không mạnh, trong vòng 400 năm mới xẩy ra 1 trận động đất có
chấn cấp M = 7,5 và 5 trận có chấn cấp M ³ 6, tức khoảng từ 60 đến 70 năm mới xẩy ra
1 trận động đất có
cấp độ tương đương. Các chấn tâm động đất phân bố không đều mà chủ yếu tập trung
tại khu vực đông bắc, cả một vùng biển rộng lớn ở phía nam không có những tâm
động đất mạnh. Các trận động đất tại khu vực nghiên cứu đến 90% có độ sâu không
quá 33 km (Hình 2) [2, 4, 7, 11].
Hình 2. Bản đồ
phân bố tâm động đất vùng biển Đông Việt
1. Vùng động đất thuộc phía bắc biển Đông
Vùng phía bắc biển Đông với các đứt gẫy phương ĐB-TN gồm 3 cấu trúc chính:
Tây Bắc vịnh Bắc Bộ; các đứt gẫy phương ĐB tại cấu trúc này cắt vuông góc với hệ
thống đứt gẫy phương TB-ĐN Sông Hồng tạo ra vùng chấn tâm động đất khá dầy tại
rìa tây bắc biển Đông. Đây là vùng có cấu trúc nhảy bậc ở rìa phía tây với dải
đông nam đồng bằng sông Hồng ở Bắc Bộ, đới Sông Mã - Sông Cả ở Bắc Trung Bộ. Cấu
trúc trung tâm gồm bán đảo Lôi Châu, phía bắc đảo Hải Nam và dải ven bờ nam lục
địa Trung Quốc. Các tài liệu lịch sử cho thấy hoạt động động đất ở đảo Hải
Các trục nén ép từ các cơ cấu chấn tiêu động đất có phương từ Đ-T đến
ĐĐN-TTB, tại phần ĐB của Nam Trung Quốc quay về hướng TB-ĐN và sau đó quay về
hướng N-B tại phía nam vùng nghiên cứu.
Hai trận động đất năm 1969 xẩy ra tại trũng Qiondonnan với các địa hào và
bán địa hào tại trũng này chủ yếu có phương ĐĐB –
Những mặt dịch chuyển và phá huỷ tại các trận động đất
xác định được cơ cấu chấn tiêu đều cho thấy các chuyển động trong các chấn tiêu
thuộc dạng trượt bằng (strike slip); có lẽ đây cũng là tính chất chung đối với
các trận động đất tại phía bắc khu vực biển Đông với trục nén P cũng như trục
giãn T có phương gần như nằm ngang hướng theo bắc-nam và đông-tây. Phương
bắc-nam của trục nén P cũng phù hợp với những kết quả quan sát khác với ứng suất
kiến tạo trong khu vực và đồng thời cũng trùng với phương bắc-nam của trục tách
giãn cổ với trục tách giãn tại trung tâm biển Đông [1, 8, 11].
2. Vùng động đất thuộc đới tách giãn trung tâm biển Đông
Vùng động đất thuộc đới tách giãn trung tâm biển Đông gồm
vùng quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc và quần đảo Trường Sa ở phía nam. Trũng sâu
trung tâm biển Đông có địa hình khá bằng phẳng, cấu trúc của vỏ đại dương ở độ
sâu khoảng 3000-4000 m dưới mặt nước, bề dầy của vỏ Trái đất ở đây là 10-12 km,
bên dưới lớp nước và trầm tích là lớp bazan. Trũng sâu gồm 2 phần, phần phía
đông bắc kéo dài theo phương vĩ tuyến và phần tây nam hướng theo phương tây nam.
Phần này có hình nêm, thu hẹp về phía lục địa, mở rộng về phía trung tâm. Các
đứt gẫy chủ yếu trong khu vực là những đứt gẫy biến dạng (transform fault),
thường không có phương nhất quán.
Sự phân bố các tâm động đất tại vùng trũng tách giãn
này cho thấy tại vùng tách giãn phía bắc, số trận động đất có M ³ 5 phân bố đều đặn hơn (13 trận) trong khi tại vùng tách giãn
phía nam thì số trận động đất có M ³5 lại
rất thưa (4 trận), nhưng ngược lại số động đất có năng lượng nhỏ hơn lại rất
nhiều.
Những nhận xét trên cho
thấy các dịch chuyển tại tâm động đất này có dạng nghịch chờm, nhưng trục P có
phương TB-ĐN và điều này phù hợp với phương chung của trục P trong khu vực và
ngoài ra còn cho thấy dạng chờm thuận là đặc trưng của các động đất xẩy ra ở
đây, điều đó cũng chứng tỏ đới hút chìm đã đóng vai trò nhất định trong chuyển
động nén ép của chấn tiêu động đất, đồng thời cũng có một vai trò nhất định
trong các hoạt động kiến tạo ở đây.
3. Vùng động đất ven biển phía tây biển Đông
Vùng động đất thuộc các dải ven bờ Trung Bộ và Nam Bộ Việt
Các đứt gẫy trong khu vực có phương chủ đạo TB-ĐN và dọc theo dải ven bờ có
những tâm động đất với năng lượng trung bình và yếu, ngoài ra còn phải kể đến
những hoạt động núi lửa trẻ hoặc mới hoạt động ở ven bờ hoặc ngoài khơi như hoạt
động của núi lửa Hòn Tro năm 1923.
III. CHẾ ĐỘ ĐỘNG ĐẤT KHU VỰC BIỂN ĐÔNG VIỆT
1. Đồ thị lặp lại tại khu vực biển Đông Việt
Hàm liên hệ giữa số lần
xẩy ra động đất và giá trị chấn cấp được sử dụng nhiều hơn cả là hàm
Gutenber-Richter dưới dạng của đồ thị lặp lại [5]:
log N(M) = (a - bM)
Ở đây, N là số trận
động đất xẩy ra với chấn cấp M tương ứng; a và b là các hằng số tương ứng cần
xác định
Đồ thị lặp lại cho khu
vực biển Đông Việt Nam và ven bờ cho thời kỳ 1903 đến 2002 với giới hạn tại rìa
phía đông là kinh độ 118oĐ, phía nam là vĩ độ 4,5oB, phía
tây và bắc giới hạn bởi ven bờ nước ta và phía nam Trung Quốc có dạng:
log N = -0,76 M + 5,16
và được trình bầy trên
đường 3 (Hình 3).
Từ đồ thị này ta có thể
tính chu kỳ lặp lại đối với động đất có chấn cấp M ³6,5 trung bình xẩy ra 60 năm 1 lần, M ³ 6 là 20 năm 1 lần, M ³ 5,5 là 7 năm 1 lần và M ³ 5 là 3 năm 1 lần.
Hình 3. Đồ thị lặp lại cho các khu vực toàn bộ biển
Đông và đất liền (1), lãnh thổ Việt Nam (phần đất liền)(2) và vùng biển Đông
Việt Nam và ven bờ (3)
Nhằm so sánh với toàn bộ biển Đông và đất liền, tức khu vực
có giới hạn j = 4,5-23,5oB, l = 100-121oĐ,
đồ thị lặp chúng tôi đã đo lại tại đây và nhận được (đường 1, hình 3):
log N = -M + 7,72
Từ đây ta có thể tính
ra chu kỳ động đất đối với M ³ 7 trung bình là 15 năm 1 lần, còn đối với M ³ 6 xẩy ra với chu kỳ
1,5 năm 1 lần, với M ³ 5 thì mỗi năm xẩy ra
trung bình là 7,5 trận động đất.
Đối với vùng đất liền
Việt
log N = -0,85M + 6,12
Và tính chu kỳ trung
bình cho động đất có M ³ 6,75 là 30 năm 1 lần,
với M ³ 6 là 10 năm 1 lần, với M ³ 5,5 là 4 năm một lần và với M ³ 5 là 2 năm 1 lần. Kết
quả trên cho ta bảng so sánh (Bảng 1).
Bảng 1. So sánh chu
kỳ động đất (năm) cho khu vực toàn bộ biển Đông (1),
vùng đất liền Việt Nam (2) và vùng biển Đông Việt Nam và ven bờ (3)
Khu vực |
Đồ thị lặp lại |
M ³
6,5 |
M ³
6,0 |
M ³
5,5 |
M ³
5,0 |
Biển Đông VN (3) |
log N = -0,76 M+5,16 |
60 |
20 |
10 |
4 |
Đất liền VN (2) |
log N = -0,85 M+6,12 |
30 |
10 |
4 |
2 |
Toàn bộ BĐ (1) |
log N = –M + 7,72 |
3 |
1, 5 |
0,5 |
0,13 |
Từ bảng 1 ta thấy rằng
chu kỳ động đất đối với toàn bộ khu vực biển Đông (1) (có giới hạn j = 4,5 - 23,5oB, l = 100-121oĐ)
cao gấp 20 lần so với vùng biển Đông Việt
2. Năng lượng động đất khu vực biển Đông
Công thức về sự liên hệ
giữa chấn cấp và năng lượng động đất có dạng :
log E = 11,8 + 1,5 M
ở đây E là năng lượng
tính bằng erg, M là chấn cấp động đất.
Sơ đồ giải toả năng
lượng động đất khu vực biển Đông Việt Nam và ven bờ cho thời kỳ 1903 đến 2002
trình bày trên hình 4 cho thấy năng lượng động đất trong toàn khu vực là 227.1020
erg, trong khi cùng khoảng thời gian trên, tại phần phía bắc của biển Đông, đã
giải toả 1 số năng lượng là 160.1020 erg, tức chiếm 73% tổng số năng
lượng của toàn biển Đông Việt Nam và ven bờ, trong khi các khu vực tách giãn
phía đông biển Đông Việt Nam là 60.1020 erg, tức chỉ chiếm 25% và
vùng ven bờ phía tây là 3.1020 erg, tức chỉ chiếm 1% so với toàn bộ
khu vực nghiên cứu.
Có 3 giai đoạn giải toả năng lượng là tại các năm
1919 (16%), 1930 (66%) và 1967 (17%)
Hình 4. Sơ đồ giải toả năng lượng động đất khu vực
biển Đông Việt
thời kỳ 1903- 2002
3. Sự phân bố mật độ chấn tâm A10
khu vực biển Đông Việt
Giá trị của mật độ chấn tâm A10 cho thấy giá trị trung bình trên
diện tích 1000 km2 trong khoảng thời gian 1 năm có số động đất có bậc
năng lượng K = 10 được thiết lập cho thời kỳ 100 năm từ 1903 đến 2002 là:
K = log E (jun) = 1,87 M + 4
ở đây K = 10 tương đương với động đất có M = 3,2, cho ta thấy:
Phần tây bắc biển Đông bao gồm cả đảo Hải Nam (Trung Quốc) là phần có mật
độ chấn tâm cao nhất, cùng với dải ven bờ Nam Trung Quốc và một phần nhỏ thuộc
đông bắc biển Đông. Tại nơi đây giá trị A10 từ 0,7 trở lên, các vùng
khác có giá trị A10 = 0,5 nằm ở phía đông biển Đông và vùng quần đảo
Trường Sa. Khu vực có giá trị A10 ³ 0,3 nằm ở Nam Trung Bộ thuộc lãnh thổ Việt
Hình 5. Sơ đồ phân bố số phần trăm độ sâu chấn tiêu
động đất vùng biển Đông
Việt
gần như toàn bộ phía nam biển Đông độ hoạt động động đất rất nhỏ.
Vùng
có giá trị A10 ³ 0,7
và các vùng khác có giá trị A10 = 0,5 nằm ở phía đông biển Đông và
vùng quần đảo Trường Sa.
4. Phân bố độ sâu chấn tiêu động đất khu vực biển Đông và ven bờ
Sự phân bố độ sâu chấn tiêu động đất liên
quan đến việc phân vùng động đất tại mỗi vùng lãnh thổ, đồng thời cho thấy độ
tắt dần của các cấp động đất tại những khoảng cách khác nhau. Sự phân bố độ sâu chấn tiêu động đất khu vực biển Đông và ven bờ
cho thấy có tới 85% động đất nằm trong phạm vi vỏ Trái đất, tức có độ sâu h < 35
km, trong đó 50% có độ sâu h = 33 km và chỉ 15% động đất có độ sâu nằm trong
phần manti trên (xem hình 5).
IV. CÁC VÙNG ĐỘNG ĐẤT KHU VỰC BIỂN ĐÔNG
1. Những nguyên tắc phân vùng địa
chấn - kiến tạo (seismo-tectonic)
Động đất chỉ xẩy ra tại
ranh giới giữa các mảng hay các đứt gẫy kiến tạo. Tần suất và độ lớn của động
đất do vận tốc chuyển động tương đối giữa hai cánh của đứt gẫy và kích thước của
các đứt gẫy tham gia vào các chuyển động này quyết định, tức là với vận tốc dịch
chuyển càng lớn thì tần suất động đất càng lớn và nếu kích thước của ranh giới
giữa các mảng càng lớn thì chấn cấp của động đất càng lớn.
Trong phân vùng địa chấn -
kiến tạo, điều quan trọng là xác định được ranh giới của các địa khối có chung
một đặc trưng kiến tạo bị ngăn cách bởi các đứt gẫy sâu, kích thước của các đứt
gẫy đồng thời xác định được tuổi hình thành của các đứt gẫy cũng như các hướng
dịch chuyển của các cánh, còn tại vùng biển Đông Việt Nam và ven bờ, các tài
liệu về kiến tạo cho phép các tác giả phân chia thành 3 khối ngăn cách bởi các
đứt gẫy cấp 1: vùng động đất bắc biển Đông, vùng động đất Trung tâm biển Đông và
vùng ven bờ Trung và Nam Bộ Việt Nam. Mỗi khối còn được chia thành các cấu trúc
ngăn cách bởi các đứt gẫy cấp 2, mỗi cấu trúc như vậy được coi như một đơn vị có
tính đồng nhất về mặt động đất, nghĩa là trong cấu trúc đó, động đất có chấn cấp
lớn nhất đã xảy ra tại một điểm bất kỳ thì nó có khả năng xẩy ra tại một điểm
bất kỳ khác trong phạm vi cấu trúc trong tương lai. Từng vùng, với các đặc trưng
địa động lực khác nhau, sẽ có các khả năng động đất cực đại khác nhau.
Động đất cực đại Mmax
trong các vùng được đánh giá theo các tiêu chí sau:
- Theo quy luật phân bố
động đất cùng sự liên hệ với các thông số khác về động đất. Đó là mối tương quan
giữa giá trị kmax của động đất cực đại có khả năng xẩy ra với độ hoạt
động động đất trung bình Atb theo công thức [ 4,10]:
log Atb
= log a + b ( kmax - ka )
Trong trường hợp biển
Đông, các giá trị log a = -0,05, b = 0,2 và ka = 15
Tại những vùng bao
quanh diện tích có giá trị Atb càng lớn thì khả năng xẩy ra động đất cực đại có
bậc năng lượng kmax càng lớn.
- Những tài liệu về động đất có chấn cấp cực đại đã
xẩy ra tại những vùng có những đặc trưng kiến tạo khác nhau.
Tổng hợp những tiêu chuẩn trên chúng tôi đề xuất một
phương án phân vùng động đất cho vùng biển Đông Việt
Khu vực biển Đông và ven bờ với 3 vùng có các đặc trưng động đất chính kể
trên đã được thể hiện chi tiết như sau:
2. Các vùng động đất Bắc biển Đông (Hình 6)
Nằm tại đông bắc đứt gẫy chạc ba đông nam đảo Hải
Tại vùng đảo Hải
Vùng động đất Tây bắc vịnh Bắc Bộ (I1). Đây là vùng động đất nằm chủ yếu trong dải ven bờ vịnh Bắc
Bộ thuộc lãnh hải Việt
Đây là vùng động đất có Mmax = 6 do có tần
suất động đất cao, mặc dù ở đây chỉ mới xuất hiện động đất với M = 5,5 (động đất
tháng 10/1584), giá trị mật độ chấn tâm A10 = 0,7 tại vùng ven biển
Hình 6. Bản đồ phân vùng động đất (Mmax) vùng biển Đông Việt
Vùng động đất nam lục địa Trung Hoa - bắc Hải
Với trận động đất xẩy ra ngày
Từ những tài liệu kể trên thấy rằng chấn cấp cực đại ở khu
vực này đã đạt tới 7,5.
Vùng động đất phía bắc đảo Hoàng Sa (I3) có phương đông - đông
bắc. Trong vùng có nhiều động đất tập trung tại rìa đông bắc, với giá trị Atb =
0,7 và Mmax = 7,0.
3. Các vùng động đất Trung tâm biển Đông
Nằm tại phía nam của nhánh phải đứt gẫy chạc ba, vùng
động đất này được chia làm 2 phần gần như đối xứng nhau: phần các đới tách giãn
đông biển Đông và phần rìa chuyển tiếp tây và tây nam biển Đông.
Vùng động đất thuộc các đới tách giãn đông biển Đông (II1). Tại các đới tách giãn phía đông biển
Đông, các tâm động đất mạnh tập trung tại phần đông bắc ở vùng tách giãn á kinh
tuyến với các động đất có M>5,5. Tại rìa phía tây và nam, các động đất mạnh thưa
hơn, nhưng mật độ các trận yếu lại tăng lên.
Vùng động đất thuộc rìa chuyển tiếp tây và tây nam biển Đông (II2) là vùng có độ
hoạt động động đất rất thấp, tại đây mật độ chấn tâm rất nhỏ với giá trị A10» 0. Các động
đất ở đây có giá trị chấn cấp » 4 với tần suất rất nhỏ.
Vùng động đất đông nam biển Đông (II3). Đây là vùng động đất khá mạnh thuộc góc đông nam của khu vực nghiên cứu
(phía đông nam đảo
4. Vùng động đất ven bờ Trung và
Tiếp theo vùng động đất tây bắc vịnh Bắc Bộ là vùng
động đất ven bờ phía trái đứt gẫy chạc ba. Các đứt gẫy trong khu vực có phương chủ
đạo TB-ĐN và dọc theo dải ven bờ có những tâm động đất với năng lượng trung bình
và yếu.
Dải động đất Hà Tĩnh - ven biển
Vùng động đất rất yếu thuộc trũng Kainozoi vịnh Bắc Bộ (III2) nằm kẹp giữa 2 đứt gẫy thuộc nhánh trái
của đứt gẫy chạc ba Nam Hải Nam, sự hình thành của vùng trũng này theo cơ chế
tách giãn và sụt lún với độ sâu tới 6000 m. Đặc điểm của vùng này là mặc dù nằm
ngay cạnh đới động đất mạnh nhất biển Đông nam Trung Hoa - bắc Hải Nam, nhưng
tại đây không hề xẩy ra động đất dù với chấn cấp rất nhỏ, cũng có thể do quá
trình tách giãn là điều kiện để năng lượng được giải toả [3].
Dải động đất yếu tây nam (III3) nằm dọc theo đứt gẫy phương
TB-ĐN, kéo dài từ tây nam biển Đông Việt
Đây là bản đồ phân vùng
động đất được thành lập cho khu vực biển Đông Việt Nam và ven bờ cho nên thực
chất là bản đồ nguồn động đất được thể hiện cho mỗi vùng có các giá trị chấn cấp
cực đại, giữa các vùng không có sự chuyển tiếp một cách liên tục đặc biệt là 2
vùng tại 2 cánh của một đứt gẫy sâu. Do lớp nước phủ vùng biển Đông Việt Nam
có độ sâu khác nhau, cho nên không có những tài liệu về độ tắt dần cũng như về
các cấp động đất, và bản đồ các vùng động đất trên đây nên hiểu là một bản đồ
nguồn động đất và chấn cấp cực đại của khu vực biển Đông Việt Nam và ven bờ.
KẾT LUẬN
Bản đồ phân bố tâm động đất cho thấy các tâm động đất
mạnh tập trung chủ yếu vào khu vực đông bắc biển Đông. Đồ thị lặp lại của động
đất có dạng log N = -0,76 M + 5,16. Bản đồ phân bố năng lượng đã cho thấy một
diện tích phía nam biển Đông có năng lượng rất yếu. Năng lượng trung bình một
năm cho toàn khu vực biển Đông là 2,25.1020 erg, xấp xỉ bằng 1/4 so
với năng lượng động đất đã xẩy ra trên đất liền của Việt
Những đặc điểm về kiến tạo khu vực, sự liên hệ giữa chấn cấp cực đại và giá
trị mật độ chấn tâm A10 cũng như tài liệu động đất thu thập được đã
cho phép chỉ ra 8 vùng với những giá trị chấn cấp cực đại.
Công trình được hoàn thành
với sự hỗ trợ của Chương trình nghiên cứu Khoa học cơ bản.
VĂN LIỆU
1. Atlas of geology and geophysics of
2. Bulletin of the International Seismological Centre. Database Access Program.
3. Committee for Co-ordination of Joint Prospecting for
Mineral Resourses in Asian offshore areas (CCOP), 1991. Bull. Vol. 23 : 120.
4. Gubin I.E., 1950.
Phương pháp địa chấn kiến tạo để phân vùng động đất. Các công trình của Viện Vật lý Trái đất, Viện HLKH Liên Xô, No.13 (tiếng
Nga).
5. Gutenberg B., Richter C. F., 1956. Magnitude and Energy
of Earthquakes. Ann. Geofis., 9: 1-15. Roma.
6. Hayes D.E., 1983. The tectonic geologic evolution of
7. Lin Gu G. and Shi Z., 1983. Catalogue of
earthquakes in
8. Nguyễn Văn Lương và nnk, 2003. Kết quả thành lập danh
mục cơ cấu chấn tiêu động đất khu vực biển Đông. Các công trình nghiên cứu địa chất và địa vật
lý biển, VII : 51-61. Hà Nội.
9. Phạm Văn Thục et al, 1985. Seismic zoning of the
10. Riznichenko Iu.V., 1966.
Raschet sotrjasaemost tochek zemnoi poverkhnosti zemle-trjasenii v
oksuzhayuschei oblasti. Fizika Zemli, 5.
Moskva.
11. Wei Bao-Zhu, Wai-Ying Chung, 1995. Strike-slip faulting
on the northern margin of the