PHÂN LOẠI
THEO CHẾ ĐỘ KIẾN TẠO
HOÀNG SAO, DƯƠNG ĐỨC KIÊM
Viện
nghiên cứu Địa chất và Khoáng sản, Thanh Xuân, Hà Nội
Tóm tắt: Các phức hệ granitoiđ liên quan mật thiết
với môi trường kiến tạo, nên có thể sử dụng thành phần khoáng vật, hóa học của
granitoiđ để xác lập chế độ kiến tạo cho các khu vực của vỏ Trái đất.
Trong bài báo này, chúng tôi sử dụng số liệu thành
phần khoáng vật và hoá học của các phức hệ granitoiđ của Izokh [2] và của
Lacroix [3], biểu diễn trên các biểu đồ môi trường kiến tạo khác nhau do Papu
D.Maniar, Philip M.Piccoli [5] đề xuất. Kết quả cuối cùng là:
Granitoiđ các phức hệ Sông Chảy, Điện Biên, Phia
Bioc, Pia Oăc, Đèo Mây, Yê Yên Sun, Mường Hum và Bản Chiềng là granitoiđ tạo
núi, trong đó granitoiđ phức hệ Điện Biên và Đèo Mây là granitoiđ cung lục địa (
Granitoiđ của các phức hệ Ca Vịnh, Phu Sa Phìn, Nậm
Xe - Tam Đường là granitoiđ không liên quan với chế độ tạo núi, trong đó
granitoiđ phức hệ Ca Vịnh là plagiogranit đại dương (OP), còn granitoiđ phức hệ
Phu Sa Phìn và Nậm Xe - Tam Đường là granitoiđ rift lục địa (RRG).
MỞ ĐẦU
Sự thành tạo granitoiđ liên quan mật thiết với môi trường kiến tạo, nên có
thể sử dụng thành phần khoáng vật, hoá học của granitoiđ để xác lập chế độ kiến
tạo cho từng khu vực địa chất. Thuật ngữ granitoiđ sử dụng ở đây bao gồm các
loại đá: granit, granit kiềm, granođiorit, tonalit, tronđjemit, điorit thạch
anh, syenit thạch anh, monzonit thạch anh, syenit thạch anh kiềm; chúng đều có
SiO2
> 60%.
Theo môi trường kiến tạo, granitoiđ được phân thành hai nhóm chính:
granitoiđ tạo núi và granitoiđ không liên quan với chế độ tạo núi [5].
Chế độ tạo núi được đặc trưng bởi các quá trình biến dạng, biến chất và xâm
nhập, kết thúc khi có va chạm giữa một cung đảo với một khối lục địa hoặc khi
chuyển động mảng thay đổi. Granitoiđ tạo núi chia nhỏ thành bốn loại: granitoiđ
cung đảo, granitoiđ cung lục địa, granitoiđ va chạm lục địa và granitoiđ sau tạo
núi.
Granitoiđ cung đảo (island arc granitoids - IAG) là sản phẩm của cung magma
hình thành do một mảng đại dương bị hút chìm bên dưới mảng đại dương khác.
Granitoiđ cung lục địa (continental arc granitoids -
Granitoiđ va chạm lục địa (continental collision granitoids - CCG) là các
đá xâm nhập hình thành trong giai đoạn va chạm giữa lục địa với lục địa ở thời
kỳ tạo núi.
Granitoiđ sau tạo núi (post orogenic granitoids -
Thuật ngữ không tạo núi (anorogenic) được hiểu là không liên quan với chế
độ tạo núi, không có bằng chứng nào về biến dạng hoặc biến chất của chế độ tạo
núi. Granitoiđ không tạo núi chia nhỏ thành ba loại: granitoiđ liên quan với
rift, granitoiđ các khối nâng lục địa và plagiogranit đại dương.
Granitoid liên quan với rift (rift related granitoids - RRG) là các loại đá
xâm nhập thành tạo liên quan với chế độ rift của vỏ lục địa, liên quan với hình
thành địa hào.
Granitoiđ các khối nâng lục địa (continental epeirogenic uplift granitoids
- CEUG) là các đá xâm nhập thành tạo liên quan với vỏ lục địa bị nâng sau tạo
núi, không phát triển thành rift.
Plagiogranit đại dương (oceanic plagiogranites - OP) là một ít plagiogranit
sinh thành cùng với đa số các đá bazơ. Plagiogranit đại dương thường có ở các
đảo và dãy núi giữa đại dương.
Phân loại granitoiđ theo môi trường kiến tạo dựa theo thành phần khoáng
vật, hoá học của granitoiđ như trình bày trên, được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Phân biệt giữa plagiogranit đại dương (OP) và các
loại granitoiđ còn lại bằng biểu đồ tương quan giữa K2O
và SiO2. Trên biểu đồ này thể hiện rất rõ là plagiogranit đại dương chứa K2O rất thấp (K2O <1).
Bước 2: Phân biệt giữa các loại granitoiđ IAG,
- Bước 3A: Phân biệt các granitoiđ của IAG, CCG và
Bước 3B: Phân biệt granitoiđ RRG và CEUG bằng biểu đồ thể
hiện mối tương quan giữa TiO2 và SiO2, trong đó granitoiđ
RRG có giá trị TiO2 cao hơn so với granitoiđ CEUG. Tuy nhiên giữa hai
trường này cũng có sự chồng chéo nào đó.
Chúng tôi sử dụng thành phần khoáng vật, hoá học các đá granitoiđ các phức
hệ magma theo Izokh [2] gồm các thành tạo granitoiđ có trong 11 phức hệ xâm nhập
là: Sông Chảy, Ca Vịnh, Điện Biên, Phia Bioc, Pia Oăc, Phu Sa Phìn, Đèo Mây,
Mường Hum, Nậm Xe - Tam Đường, Yê Yên Sun, Bản Chiềng.
Thành phần khoáng vật và hoá học granitoiđ của các phức hệ trên được thể
hiện trên biểu đồ phân loại kiến tạo.
1. Granitoiđ phức hệ Sông Chảy
Khối Sông Chảy nằm về phía tây, tây nam thị xã Hà Giang, lộ ra trên 2500 km2,
có dạng vòm lớn, khá tròn trịa, hơi kéo dài theo hướng đông bắc - tây nam, gồm
granit hai mica dạng porphyr, granit sáng màu, granit bị biến đổi mạnh.
Thành phần khoáng vật của granit khối Sông Chảy xem bảng 1, trang 304 trong
[2].
Thành phần hoá học của granit khối Sông Chảy xem bảng 2, trang 306 trong
[2].
Phức hệ Sông Chảy được thành tạo trước Paleozoi [2]. Theo Trần Văn Trị [6]
phức hệ Sông Chảy được xếp vào Paleozoi, vì gây biến chất trầm tích hệ tầng Hà
Giang tuổi Cambri giữa và trầm tích Paleozoi bao quanh khối Sông Chảy phát triển
chỉnh hợp và đồng dạng với kiến trúc nội bộ của khối Sông Chảy.
Thành phần khoáng vật, hoá học của granit khối Sông Chảy được thể hiện trên
các biểu đồ phân loại kiến tạo. Trên biểu đồ tam giác QAP (Hình 1) và biểu đồ
tương quan giữa SiO2 và Al2O3 (Hình 2) chúng
đều nằm vào trường CCG. Vì vậy, granitoiđ phức hệ Sông Chảy thuộc nhóm granitoiđ
tạo núi, loại granitoiđ va chạm lục địa (CCG).
2. Granitoiđ loạt Điện Biên
Loạt Điện Biên gồm các khối xâm nhập Nậm Rốm, Nậm Meng,
Thành phần khoáng vật
của granitoiđ loạt Điện Biên xem bảng 4, trang 330-331 trong [2].
Thành phần hoá học
của granitoiđ loạt Điện Biên trích từ bảng 6, trang 339-343 trong [2].
Thời gian thành tạo
các đá của loạt Điện Biên trùng với chuyển động kiến tạo vào giới hạn giữa Trias
sớm và Trias giữa [2] và theo Trần Văn Trị và nnk [6] thì tuổi nhóm Điện Biên -
Ngân Sơn còn là vấn đề chưa thật rõ ràng. Nó có thể xuất hiện trong giai đoạn
Permi muộn - Carni.
Thành phần khoáng
vật, hoá học của granitoiđ loạt Điện Biên được thể hiện trên các biểu đồ phân
loại kiến tạo. Trên biểu đồ tương quan giữa SiO2 và Al2O3 (Hình 3) và
trên biểu đồ chỉ số Shand (Hình 4), chúng đều rơi vào trường CAG, nên có thể xếp
granitoiđ loạt Điện Biên vào nhóm granitoiđ tạo núi, thuộc loại granitoiđ cung
lục địa (CAG).
3. Granitoiđ phức hệ Phia Bioc
Phức hệ Phia Bioc
phân bố rộng rãi trong các đới cấu trúc khác nhau ở miền Bắc Việt Nam bao gồm
các khối: Phia Bioc, Linh Đàm, Chợ Chu, Núi Là, Pu Si Lung, Bản Bồng Tôm, Tạ
Khoa, Kim Bôi, Mường Lát, Làng Bông, Sầm Sơn, Núi Ông, Mường Xén, Trường Sơn,
Tuấn Trường, Đồng Hới…[2].
Phức hệ Phia Bioc gồm các loại đá chủ yếu là granit biotit và granit hai
mica.
Thành phần khoáng vật của granit phức hệ Phia Bioc
xem bảng 14, trang 384-387 trong [2].
Thành phần hoá học của granit phức hệ Phia Bioc xem
bảng 16, trang 388, 389 trong [2].
Tuổi xâm nhập phức hệ Phia Bioc ở khoảng giữa Carni và Nori [2] hoặc vào
Trias muộn (sát trước Nori) [6].
Thành phần khoáng vật, hoá học của granit phức hệ Phia Bioc được thể hiện
trên các biểu đồ phân loại kiến tạo. Trên biểu đồ tương quan giữa SiO2 và Al2O3
(Hình 5) và trên biểu đồ chỉ số Shand (Hình 6) chúng đều rơi vào trường CCG, nên
có thể xếp granit phức hệ Phia Bioc vào nhóm granitoiđ tạo núi, thuộc loại
granitoiđ va chạm lục địa (CCG).
4. Granitoiđ phức hệ Pia Oăc
Phức hệ Pia Oăc gồm những khối nhỏ granit chứa thiếc, phân bố ở vùng Đông
Bắc Bộ. Đó là các khối: Pia Oăc, Sơn Dương, Đá Liền, Ngân Sơn, có diện lộ nhỏ.
Dựa vào đặc điểm tiếp xúc của khối Pia Oăc, những dấu hiệu biến chất tiếp xúc,
giàu khoáng hoá, có thể dự đoán dưới sâu có những khối granit rất lớn trong các
vùng này.
Về đặc điểm thạch học, granit phức hệ Pia Oăc giống với granit phức hệ Phia
Bioc, có thể xếp chung vào một phức hệ, nhưng so với granit phức hệ Phia Bioc
thì granit phức hệ Pia Oăc sáng màu hơn, plagioclas axit hơn, không có khoáng
vật phụ corđierit, anđalusit và các khoáng vật cao nhôm khác, muscovit vượt trội
hơn biotit, plagioclas thường cao hơn felspat kali. Granit phức hệ Pia Oăc rất
giàu các nguyên tố: F, B, Sn, W, as, Be, Nb, v.v. Liên quan nguồn gốc với granit
phức hệ Pia Oăc có khoáng sản thiếc, wolfram.
Thành phần khoáng vật của granit phức hệ Pia Oăc xem bảng 24, trang 444
trong [2].
Thành phần hoá học của granit phức hệ Pia Oăc xem
bảng 25, trang 447, 448 trong [2].
Phức hệ Pia Oăc được xếp vào tuổi Creta muộn dựa vào giá trị tuổi tuyệt đối
(85 - 95 triệu năm) [2].
Thành phần khoáng vật và hoá học của granit phức hệ Pia Oăc được thể hiện trên các biểu
đồ phân loại kiến tạo. Trên biểu đồ tương quan giữa SiO2 và Al2O3
(Hình 7) và trên biểu đồ chỉ số Shand (Hình 8), chúng đều rơi vào trường CCG,
nên có thể xếp granit phức hệ Pia Oăc vào nhóm granitoiđ tạo núi, thuộc loại
granitoiđ va chạm lục địa (CCG).
5. Granitoiđ phức hệ Đèo Mây
Khối granitoiđ Đèo Mây có diện tích lớn 1.500 km2, là một trong
những khối xâm nhập lớn ở miền Bắc Việt Nam, cấu thành phần lớn dãy núi Phan Si
Pan. Các đá của phức hệ Đèo Mây là syenit-điorit, điorit- syenit thạch anh,
granosyenit, granit, thường có cấu tạo gneis. Trong các đá đó kali vượt trội hơn
natri, giàu nguyên tố hiếm Nb, Zr, Sr.
Thành phần khoáng vật của granitoiđ Đèo Mây xem bảng 31, trang 462-463
trong [2].
Thành phần hoá học của granit phức hệ Đèo Mây xem bảng 32, trang 462-463
trong [2].
Granitoiđ dạng gneis phức hệ Đèo Mây được xếp vào thành phần “Orthogneis
Phan Si Pan” thuộc thành tạo Archei, bị biến chất vào thời kỳ Huron (Proterozoi)
[3]. Theo Izokh [2], granitoiđ phức hệ Đèo Mây thuộc loạt Phan Si Pan có tuổi
Paleogen. Khi lập bản đồ địa chất tỷ lệ 1: 200.000 tờ Lào Cai - Kim Bình, Phan
Viết Kỷ [trong 1] đã gộp chung các khối Đèo Mây, Mường Hum thành một phức hệ
tuổi Proterozoi muộn giả định.
Thành phần khoáng vật và hoá học của granitoiđ phức hệ Đèo Mây được thể
hiện trên các biểu đồ phân loại kiến tạo. Trên biểu đồ tương quan giữa SiO2và
Al2O3 và biểu đồ chỉ số Shand (Hình 10), chúng phân bố rất
phân tán, nhưng đa số rơi vào trường
6. Granitoiđ phức hệ Mường Hum
Khối Mường Hum nằm cạnh thị trấn Mường Hum thuộc tỉnh Lào Cai. Thành phần
chủ yếu là granit kiềm dạng gneis có felspat kali trội hơn so với plagioclas,
khoáng vật màu là amphibol. Đường phương sọc gneis của granitoiđ trùng với đá
biến chất Tiền Cambri hệ tầng Sin Quyền.
Thành phần khoáng vật của granitoiđ phức hệ Mường Hum xem bảng 34, trang
468-469 trong [2].
Thành phần hoá học của granit phức hệ Mường Hum xem bảng 35, trang 468-469
trong [2].
Cũng như granitoiđ phức hệ Đèo Mây, granitoiđ phức hệ Mường Hum được coi là
thành phần “Orthogneis Phan Si Pan” thuộc thành tạo Archei, bị biến chất vào
thời kỳ Huron (Proterozoi) [3], hoặc vào thời kỳ Proterozoi muộn giả định [1].
Thành phần khoáng vật và hoá học của granitoiđ phức hệ Mường Hum được thể
hiện trên các biểu đồ phân loại kiến tạo. Chúng được xếp vào nhóm
7. Granitoiđ phức hệ Yê Yên Sun
Thành tạo tiêu biểu nhất của phức hệ là khối Yê Yên Sun tạo nên phần xương
sống của dãy núi Phan Si Pan. Khối phát triển theo hướng tây bắc - đông nam, dài
140 km (từ biên giới Việt-Trung đến vùng thượng nguồn suối Nậm Qua, tây nam Văn
Bàn). Khối Yê Yên Sun chủ yếu gồm granosyenit biotit-amphibol, granit
biotit-amphibol, granit biotit và granit sáng màu.
Thành phần khoáng vật của granitoiđ phức hệ Yê Yên Sun xem bảng 40, trang
484-485 trong [2].
Thành phần hoá học của granitoiđ phức hệ Yê Yên Sun xem bảng 42, trang
484-485 trong [2].
Thành phần khoáng vật và hoá học của granitoiđ phức hệ Yê Yên Sun được thể
hiện trên các biểu đồ phân loại kiến tạo. Trên biểu đồ tương quan giữa SiO2
và Al2O3 (Hình 13) và biểu đồ chỉ số Shand (Hình 14),
chúng đều rơi vào trường CCG (Hình 22, 23). Vì vậy, granitoiđ phức hệ Yê Yên Sun
được xếp vào granitoiđ tạo núi, thuộc loại granitoiđ va chạm lục địa (CCG).
8. Granitoiđ phức hệ Bản Chiềng
Các thành tạo của phức hệ Bản Chiềng phân bố ở miền tây Thanh Hoá, gồm các
khối: Bản Chiềng, Sông Chu, Phu Loi, Phu Om, Hồng Lĩnh. Chúng chứa những loại đá
sau: syenit thạch anh, granosyenit, granit alaskit.
Thành phần khoáng vật của granitoiđ phức hệ Bản Chiềng xem bảng 44, trang
492-493 trong [2].
Thành phần hoá học của granitoiđ phức hệ Bản Chiềng xem bảng 45, trang
496-497 trong [2].
Phức hệ Bản Chiềng được xếp vào tuổi Paleogen dựa vào các số liệu tuổi
tuyệt đối với các giá trị thay đổi từ 29 đến 41 triệu năm [2].
Thành phần khoáng vật và hoá học của granitoiđ phức hệ Bản Chiềng được thể
hiện trên các biểu đồ phân loại kiến tạo. Trên biểu đồ tam giác QAP (Hình 15) và
trên biểu đồ tương quan giữa SiO2
và FeO(T) / FeO(T)
+ MgO (Hình 16) chúng đều nằm trong trường POG. Vì vậy, granitoiđ phức hệ Bản
Chiềng được xếp vào granitoiđ sau tạo núi (POG).
9. Granitoiđ phức hệ Ca Vịnh
Khối Ca Vịnh tiêu biểu cho phức hệ này, nằm về phía đông nam thị xã Yên
Bái, có dạng kéo dài theo hướng tây bắc trùng với phương của đới Phan Si Pan,
dài 60 km, rộng từ 5 đến 15 km. Diện lộ chung của khối 400 km2. Cấu
thành khối Ca Vịnh có plagiogranit là loại đá phổ biến nhất của phức hệ. Ngoài
ra trong phức hệ còn có tronđjemit, tonalit và granođiorit, có hàm lượng natri
trội hơn kali. Granit thường có kiến trúc porphyr hoặc ban biến tinh, cấu tạo
dải. Đặc điểm thạch học của phức hệ này rất giống các đá của phức hệ Sông Chảy.
Thành phần hoá học của granitoiđ phức hệ Ca Vịnh xem bảng 3, trang 314
trong [2].
Tuổi hình thành phức hệ Ca Vịnh còn nhiều vấn đề chưa sáng tỏ. Theo Izokh
(trong [2]) phức hệ này có tuổi Proterozoi dựa theo thực thể đá ban đầu.
Hai kết quả phân tích hoá học của granitoiđ Ca Vịnh được thể hiện trên các
biểu đồ phân loại kiến tạo, trong đó có 1 điểm rơi vào trường OP (Hình 17),
nhưng trên biểu đồ chỉ số Shand (Hình 18), chúng đều nằm trong trường OP. Vì
vậy, granitoiđ phức hệ Ca Vịnh được xếp vào granitoiđ không liên quan với chế độ
tạo núi, thuộc loại plagiogranit đại dương (OP).
10. Granitoiđ phức hệ Phu Sa Phìn
Phức hệ này gồm các thể xâm nhập nông và á núi lửa, có quan hệ chặt chẽ
trong không gian và thời gian và mang tính đồng magma với các thành tạo
liparit-comenđit-orthophyr Tú Lệ.
Phức hệ Phu Sa Phìn được đặc trưng bởi dãy phân dị: syenit thạch anh -
granosyenit-granit, trong đó granosyenit chiếm ưu thế, thứ yếu là granit.
Thành phần khoáng vật của granitoiđ phức hệ Phu Sa Phìn xem bảng 28, trang
455 trong [2].
Thành phần hoá học của granitoiđ phức hệ Phu Sa Phìn xem bảng 29, trang
456-457 trong [2].
Các số liệu địa chất, thạch học, thạch hoá và địa hoá chứng minh tính đồng
magma giữa phức hệ Phu Sa Phìn và các thành tạo phun trào axit, trung tính, á
kiềm tuổi Jura-Creta của máng chồng Tú Lệ. Phức hệ Phu Sa Phìn xuất hiện chủ yếu
vào cuối chu kỳ hoạt động núi lửa. Các giá trị tuổi tuyệt đối của biotit trong
các loại đá của phức hệ phần lớn ứng với tuổi Creta sớm (81, 90 và 101 triệu
năm).
Thành phần khoáng vật và hoá học của granitoiđ phức hệ Phu Sa Phìn được thể
hiện trên các biểu đồ phân loại kiến tạo. Trên biểu đồ tam giác QAP (Hình 19)
biểu đồ tương quan giữa SiO2 và TiO2 (Hình 20), chúng đều
nằm trong trường RRG.
Vì vậy granitoiđ phức hệ Phu Sa Phìn được xếp vào granitoiđ không liên quan
với chế độ tạo núi, thuộc loại granitoiđ liên quan với thành tạo rift (RRG).
11. Granitoiđ phức hệ Nậm Xe - Tam Đường
Phức hệ này gồm các khối nhỏ, phân bố chủ yếu dọc sườn tây dãy núi Phan Si
Pan và lẻ tẻ ở vùng Pa Tần, bắc Lai Châu. Thành phần thạch học của phức hệ gồm
syenit, syenit thạch anh và granosyenit, tất cả đều mang tính kiềm. Ngoài ra,
còn gặp rải rác loại granit kiềm. Nhìn chung, phức hệ có các đặc điểm chính là:
- Các đá phân dị từ syenit qua granosyenit kiềm đến granit kiềm, phát triển
ở trường xâm nhập nông, á núi lửa.
- Các khối tiêu biểu phân bố thành dải rải rác, dọc theo đứt gãy hướng tây
bắc - đông nam.
- Đặc trưng bởi sự tăng cao hàm lượng của các nguyên tố quan trọng như Th,
Pb, Nb, Be,
Thành phần khoáng vật của granitoiđ phức hệ Nậm Xe -
Tam Đường xem bảng 37, trang 476 trong [2].
Thành phần hoá học của granitoiđ phức hệ Nậm Xe - Tam Đường xem bảng 38,
trang 478 - 479 trong [2].
Theo số liệu tuổi tuyệt đối (56 triệu năm), phức hệ Nậm Xe - Tam Đường
thành tạo vào Paleogen [2].
Thành phần khoáng vật và hoá học của granitoiđ phức hệ Nậm Xe - Tam Đường
được thể hiện trên các biểu đồ phân loại kiến tạo. Trên biểu đồ tam giác QAP
(Hình 21) và biểu đồ tương quan giữa SiO2
và TiO2 (Hình 22), chúng đều nằm trong trường CEUG và một phần nằm
vào trường RRG. Vì vậy, granitoiđ phức hệ Nậm Xe - Tam Đường được xếp vào loại
granitoiđ không liên quan với chế độ tạo núi, thuộc loại granitoiđ các khối nâng
lục địa hoặc granitoiđ liên quan với thành tạo rift vỏ lục địa. Trên các biểu đồ
không phân biệt được rõ ràng hai loại môi trường này.
II. KẾT LUẬN
Thành phần khoáng vật và hoá học [theo tài liệu của 2 và 3] granitoiđ của
11 phức hệ magma ở miền Bắc Việt Nam, được thể hiện trên các biểu đồ phân loại
kiến tạo [5], có thể chia thành 2 nhóm chính:
- Granitoiđ tạo núi gồm granitoiđ
của các phức hệ Sông Chảy, Điện Biên, Phia Bioc, Pia Oăc, Đèo Mây, Yê Yên Sun,
Mường Hum, Bản Chiềng, trong đó granitoiđ phức hệ Điện Biên và Đèo Mây là
granitoiđ cung lục địa (CAG), granitoiđ phức hệ Sông Chảy, Phia Bioc, Pia Oăc,
Yê Yên Sun là granitoiđ va chạm lục địa (CCG), còn granitoiđ phức hệ Mường Hum,
Bản Chiềng là granitoiđ sau tạo núi (POG).
- Granitoiđ không liên quan với chế độ tạo núi gồm granitoiđ của các phức
hệ Ca Vịnh, Phu Sa Phìn, Nậm Xe - Tam Đường, trong đó granitoiđ phức hệ Ca Vịnh
là plagiogranit đại dương (OP), còn granitoiđ Phu Sa Phìn và Nậm Xe - Tam Đường
là granitoiđ liên quan thành tạo rift vỏ lục địa (RRG).
VĂN LIỆU
1. Bùi Phú Mỹ (Chủ biên), 1978. Địa chất tờ Lào Cai - Kim Bình.
Tổng cục Địa chất, Hà Nội.
2. Đovjikov A.E (Chủ biên), 1965. Geologija
Severnogo Vietnama. Objasnitelnaja zapiska k geologitcheskoi karte Severnogo
Vietnama. GGU, Hà Nội.
3.
Lacroix A., 1993. Contribution à la connaissance de la composition chimique et minéralogique
des roches éruptive de l'Indochine. Bull.
SGI, XX/3, Hà Nội.
4. Nguyễn
Xuân Tùng, Trần Văn Trị (Đồng chủ biên), 1992. Thành hệ địa chất và địa động
lực Việt Nam. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
5. Papu
D. Maniar, Philip M.Piccoli, 1989. Tectonic
discrimination of granitoids. Dept. of
Geol. and Plan. Sci.
6. Trần Văn Trị (Chủ biên), 1977. Địa chất Việt