ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ SỰ KHỐNG CHẾ QUẶNG HOÁ
TẠI MỎ ĐA KIM NÚI PHÁO, ĐẠI TỪ, THÁI NGUYÊN
TRẦN THANH HẢI1,
MATHEW FARMER2, JAMES STEMLER2 VÀ STEVE DUKA2
1Khoa Địa chất, Đại học Mỏ - Địa chất, Từ
Liêm, Hà Nội, Việt Nam
2Tiberon Minerals Ltd, Toronto, Ontario, Canada
Tóm tắt:
Mỏ đa kim Núi Pháo, một mỏ skarn nằm trong đá trầm tích của hệ tầng Phú Ngữ tuổi
Orđovic-Silur, có nguồn gốc liên quan tới sự xâm nhập của các đá granit hai mica
thuộc phức hệ Pia Oắc tuổi Creta muộn. Đá vây quanh quặng chịu tác động bởi ít
nhất 3 pha biến dạng khu vực, trong đó có hai pha biến dạng dẻo và một pha biến
dạng giòn. Pha biến dạng thứ nhất làm uốn nếp mạnh mẽ các đá trầm tích lục
nguyên - carbonat thuộc hệ tầng Phú Ngữ, tạo nên hàng loạt nếp uốn đẳng cánh làm
dày các trầm tích lên nhiều lần, và làm dịch chuyển hệ tầng Phú Ngữ ra khỏi vị
trí trầm tích nguyên thuỷ của nó. Pha biến dạng thứ hai tái uốn nếp các cấu trúc
hình thành trong pha 1 và tạo nên hình thái cấu trúc chủ yếu của khu vực. Các
biến dạng giòn thuộc pha 3 làm phức tạp hoá các thành tạo có trước, nhưng không
làm thay đổi đáng kể bình đồ cấu trúc khu vực. Thân quặng skarn đa kim có hình
thái đơn giản và hình thành sau hai pha biến dạng dẻo chính, nhưng hình thái và
quy mô thân quặng và sự phân bố của nó bị khống chế mạnh mẽ bởi các yếu tố cấu
trúc khu vực tiền tạo quặng. Do đó việc luận giải đúng đắn mối quan hệ cấu trúc
không những góp phần làm rõ bản chất biến dạng khu vực, mà còn góp phần quan
trọng vào việc suy đoán quy mô và phương phát triển của khoáng hoá.
MỞ ĐẦU
Mỏ đa kim wolfram-fluorit-bismut-đồng-vàng Núi Pháo chiếm
một diện tích khoảng 45 km2 ở phía đông thị trấn Đại Từ, thuộc huyện
Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên (Hình 1), cách Hà Nội khoảng 80 km về phía bắc.
Các dấu hiệu quặng hoá trong vùng
mỏ, bao gồm cả thiếc và wolfram và một số khoáng sản khác lần đầu tiên được tìm
kiếm vào cuối những năm 1960 và từ đó tới đầu những năm 1990 được các nhà địa
chất Việt Nam tiến hành tìm kiếm, nghiên cứu và đánh giá dự báo triển vọng ở các
mức độ khác nhau [1, 7, 8]. Đến khi Công ty khoáng sản Tiberon Ltd., một công ty
chuyên về tìm kiếm khoáng sản có trụ sở chính tại Canada, tiến hành tìm kiếm
thăm dò vùng mỏ từ năm 1997 thì tiềm năng khoáng sản của mỏ đa kim Núi Pháo mới
thực sự được đánh giá một cách chi tiết và định lượng. Công ty Tiberon hiện đang
tiến hành thăm dò bổ sung và nghiên cứu khả thi để xin giấy phép khai thác mỏ.
Mỏ đa kim Núi Pháo là một
mỏ có nguồn gốc skarn và greisen liên quan tới xâm nhập được đặc trưng bởi một
tổ hợp các khoáng vật chứa W, Au, Cu, Bi, F, và Be. Hình
thái cấu trúc của khu mỏ và vùng lân cận cũng như của thân quặng đa kim bị khống
chế bởi một loạt sự kiện biến dạng có thời gian khác nhau. Mỏ gồm một thân quặng
lớn nằm sâu dưới lớp phủ Đệ tứ hoặc vỏ phong hoá dày, có nơi tới vài chục mét.
Phần lộ của thân quặng bị phong hoá rất mạnh mẽ và chỉ còn tồn tại dưới dạng các
đới mũ sắt có kích thước khác nhau (Hình 2a) hoặc một lớp vỏ phong hoá dày. Lớp
phủ dày với sự phong hoá mạnh mẽ đã làm cho việc quan sát và luận giải địa chất
trong vùng mỏ gặp rất nhiều khó khăn và phải dựa chủ yếu vào việc phân tích các
tài liệu khoan.
Theo các số liệu tính toán đến
cuối năm 2003 của Công ty Tiberon Ltd thì mỏ đa kim Núi Pháo có tổng trữ lượng
tài nguyên tương ứng với các cấp B, C1, và C2 là 110 triệu
tấn tính cho giá trị hàm lượng biên tương đương với WO3 là 0,2%,
trong đó bao gồm một phần trữ lượng đáng kể của fluorit, vàng, đồng, và bismut.
Với trữ lượng và quy mô như vậy, mỏ Núi Pháo có thể là một trong những mỏ có trữ
lượng wolfram và fluorit lớn nhất được biết cho đến nay ở Việt
Vì việc khảo sát và đánh giá mỏ
vẫn đang được tiến hành nên các luận giải chi tiết và đầy đủ nhất về địa chất và
khoáng sản liên quan tới khu mỏ này chưa thể thực hiện được. Trong bài báo này
chúng tôi trình bày những nhận định ban đầu về đặc điểm cấu trúc liên quan tới
quá trình biến dạng của đá trong khu vực mỏ và vai trò của chúng đối với khoáng
hoá đa kim. Những kết quả này được dựa trên việc phân tích chi tiết đặc điểm cấu
tạo của đá và quặng và mối quan hệ giữa các loại cấu tạo khác nhau thu được chủ
yếu từ các lỗ khoan thăm dò định hướng do Công ty Tiberon thực hiện.
I. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT CỦA MỎ
ĐA KIM NÚI PHÁO
Thân quặng đa kim tại mỏ Núi Pháo
phân bố trong các đá trầm tích biến chất tuổi Orđovic-Silur của hệ tầng Phú Ngữ
[4]. Trong vùng nghiên cứu, hệ tầng Phú Ngữ bao gồm chủ yếu là cát kết, bột kết,
đá hoa, silic vôi, đá phiến thạch anh, đá phiến mica, đá phiến chlorit và các
sản phẩm skarn hoá như đá sừng amphibol, pyroxen, granat, anđalusit. Ở nhiều
nơi, các khoáng vật quặng của wolfram, fluor, bismut, đồng và vàng tập trung
trong đá với hàm lượng công nghiệp.
Các đá trầm tích hệ tầng Phú Ngữ có ranh giới tiếp xúc với 3 khối xâm nhập (Hình
2a), trong đó có khối xâm nhập mafic Núi Chúa tuổi Trias muộn và hai khối
granitoiđ là khối Núi Pháo thuộc phức hệ Núi Điệng
tuổi Trias muộn [3] và khối Đá Liền thuộc phức hệ Pia Oắc tuổi Creta muộn [2].
nghiên cứu mới của Công ty
Tiberon, khối xâm nhập Đá Liền là nguồn sinh khoáng chính trong khu vực: sự xâm
nhập của các đá granit hai mica Đá Liền là nguyên nhân tạo nên hiện tượng skarn
và greisen hoá và lắng đọng khoáng hoá đa kim trong vùng này. Một số mạch
pegmatit muộn, có thể liên quan tới giai đoạn cuối của hoạt động magma tạo nên
khối Đá Liền, cũng có mặt rải rác và đôi nơi có chứa các khoáng hoá cassiterit.
Các đá của hệ tầng Phú Ngữ bị biến
dạng rất mạnh mẽ và phức tạp do sự tác động của nhiều pha biến dạng và ở trong
các môi trường biến dạng khác nhau từ dẻo tới giòn, làm cho cấu trúc khu vực
cũng như cấu trúc khống chế quặng hoá trở nên hết sức phức tạp và ảnh hưởng mạnh
mẽ tới sự tập trung quặng hoá cũng như hình thái thân quặng. Ngoài ra, các khối
xâm nhập trong vùng cũng bị biến dạng với các mức độ khác nhau. Các yếu tố cấu
tạo liên quan tới sự biến dạng này sẽ được thảo luận chi tiết ở phần sau.
Cả biến chất khu vực và biến chất
tiếp xúc đều có mặt trong vùng nghiên cứu. Biến chất khu vực tác động lên các đá
trầm tích thuộc hệ tầng Phú Ngữ ở tướng đá phiến lục, thể hiện bởi sự phát triển
rộng rãi các khoáng vật biotit, chlorit và sericit. Biến chất tiếp xúc rất phổ
biến trong khu vực mỏ và đặc trưng bởi một đới rộng các loại đá sừng, đá hoa và
silic vôi vây quanh khối granit Đá Liền. Bản thân khối granit Núi Pháo cũng bị
tác động của biến chất tiếp xúc ở phần tiếp xúc với khối Đá Liền. Hiện tượng
skarn hoá các đá trầm tích của hệ tầng Phú Ngữ phát triển rất rộng rãi và được
trưng bởi sự phân đới khác nhau từ đá sừng > pyroxen (điopsiđ) > granat
(grossular) > wolastonit ± vesuvianit > calcit ± tremolit ± actinolit. Ngoài ra, các đới skarn hoá còn có
mặt với mức độ phổ biến khác nhau của các khoáng vật biến chất khác và một số
đáng kể sheelit, pyrotit, magnetit, chalcopyrit, sphalerit, hoặc molybđenit.
Khác với các đá granit trong vùng thường có biểu hiện từ tính yếu, các đới biến
đổi skarn thường có biểu hiện địa vật lý từ rất mạnh do chúng chứa một hàm lượng
đáng kể các khoáng vật từ tính như pyrotit hoặc magnetit. Do đó các dị thường
địa vật lý từ trong khu vực là một trong những dấu hiệu biểu hiện của khoáng hoá
skarn.
Hiện tượng skarn hoá rất phổ biến
trong toàn khu vực nghiên cứu, chứng tỏ thể tích của khối xâm nhập granit Đá
Liền là rất lớn và có thể trải rộng trên toàn bộ diện tích nghiên cứu ở dưới
sâu. Các đá skarn lại bị chồng lấn bởi hiện tượng greisen hoá muộn hơn, dẫn đến
sự tập trung và làm giàu một số khoáng vật quặng, đặc biệt là fluorit, tới hàm
lượng công nghiệp.
II. ĐẶC ĐIỂM BIẾN DẠNG KHU VỰC VÀ QUAN
HỆ GIỮA CẤU TRÚC VỚI QUẶNG HOÁ
1. Đặc điểm biến dạng
Các tài liệu nghiên cứu trước đây đều cho rằng hoạt động
kiến tạo trong khu vực chủ yếu hình thành các đứt gãy giòn trong đó đứt gãy
Đường 13A đi qua trung tâm khu vực mỏ Núi Pháo là một đứt gãy lớn với vai trò
phân đới cấu tạo và liên quan tới các hoạt động magma và sinh khoáng trong vùng.
Đặc biệt, không có một tài liệu nào đề cập tới sự hình thành của các cấu tạo
phiến cũng như vai trò của các hoạt động uốn nếp. Các tài liệu cũ thường xem
trật tự và mối quan hệ địa tầng giữa các tầng đá là đơn giản, mang tính chuyển
tiếp và không có sự xáo trộn về mặt thế nằm so với trật tự địa tầng nguyên thuỷ.
Tuy nhiên các tài liệu địa chất do Công ty Tiberon thu thập và các quan sát của
chúng tôi cho thấy không có những bằng chứng xác đáng để chứng minh vai trò quan
trọng của các đứt gãy giòn trong bình đồ cấu trúc khu vực [9]. Ngược lại, những
tài liệu hiện có chỉ ra rằng cấu trúc của vùng mỏ Núi Pháo, và có thể trên một
quy mô khu vực rộng lớn hơn, hình thành từ sự giao thoa của nhiều pha biến dạng
kiến tạo khác nhau [9]. Mỗi pha biến dạng đã hình thành nên một thế hệ cấu tạo
có tính hệ thống và có quy mô khu vực. Bằng phương pháp loại trừ dần các mối
quan hệ chồng lấn của các thế hệ cấu tạo hình thành muộn hơn lên các cấu tạo có
trước và so sánh đặc điểm của từng thế hệ cấu tạo đặc trưng cũng như thời gian
thành tạo tương đối của chúng có thể phân lập được từng pha biến dạng riêng
biệt. Những pha biến dạng cơ bản mang tính khu vực trong vùng nghiên cứu được mô
tả dưới đây.
Pha biến dạng thứ nhất (B1)
và các cấu tạo liên quan
Pha biến dạng đầu tiên có thể nhận biết được trong vùng
nghiên cứu là một pha biến dạng trong môi trường dẻo, đặc trưng bởi sự phát
triển của một thế hệ phân phiến khu vực (S1) tác động mạnh mẽ lên các
đá trầm tích thuộc hệ tầng Phú Ngữ và, ít hơn, trong các đá granit biotit thuộc
phức hệ Núi Điệng (khối Núi Pháo). Các cấu tạo phân lớp nguyên thuỷ (S0)
trong hệ tầng Phú Ngữ đã bị phá huỷ gần như hoàn toàn và được thay thế bằng hoặc
chuyển thành song song với cấu tạo phân phiến khu vực (S1). Cấu tạo
phân phiến này song song với mặt trục của các nếp uốn đẳng tà (U1,
ảnh 1a) dạng tương tự (similar fold [5]) uốn nếp các cấu tạo phân lớp nguyên
thuỷ (S0) của hệ tầng Phú Ngữ (ảnh 1b). Độ hẹp của các nếp uốn U1
có xu hướng tăng khi đi về phía ranh giới của hệ tầng Phú Ngữ với khối granit
Núi Pháo (Hình 2b).
Ngoài ra, các cấu tạo phân phiến S1
còn phát triển mạnh và song song với các cấu tạo dải trượt (C) của phân
phiến mylonit phát triển trong granit khối Núi Pháo (Hình 2b, ảnh 1c, 1d), đặc
biệt là ở gần ranh giới tiếp xúc của khối này với các đá trầm tích hệ tầng Phú
Ngữ. Đới mylonit có bề dày tới vài mét,
trong đó có nơi granit đã bị mylonit hoá hoàn toàn và trở thành siêu mylonit
(ultramylonite) với các cấu trúc thể hiện hướng trượt rất rõ ràng như cấu tạo
sigma hoặc dải trượt, chứng tỏ ranh giới của khối granit Núi Pháo và đá trầm
tích thuộc hệ tầng Phú Ngữ đã trở thành một đới trượt lớn mà dọc theo đó hệ tầng
Phú Ngữ đã bị dịch chuyển khỏi vị trí nguyên thuỷ của nó. Cấu tạo dạng ‘tương
tự’ và sự gia tăng độ hẹp của nếp uốn về phía đới trượt (ở rìa khối Núi Pháo)
chứng tỏ sự uốn nếp liên quan chặt chẽ với chuyển động uốn cắt (shear folding
[5, 6]) mang tính khu vực trong pha biến dạng thứ nhất. Như vậy đá granit thuộc
khối Núi Pháo xâm nhập vào hệ tầng Phú Ngữ trước khi pha biến dạng thứ nhất xảy
ra và vị trí kiến tạo của hệ tầng Phú Ngữ hiện tại là ngoại lai (allochthonous)
so với vị trí trầm tích nguyên thuỷ của nó.
Các cấu tạo trong pha biến dạng thứ nhất hình thành đồng
thời với biến chất khu vực ở tướng đá phiến lục thấp, nhưng chúng thường bị các
cấu tạo muộn hơn hoặc các cấu tạo liên quan tới skarn phá hủy, chứng tỏ pha biến
dạng thứ nhất hoạt động trước khi quá trình tạo quặng skarn diễn ra.
Sự uốn nếp trong pha biến dạng thứ nhất đã làm cho lớp đá
hoa và đá silic vôi của hệ tầng Phú Ngữ bị uốn nếp liên tục với các nếp uốn đẳng
cánh lớn kiểu tương tự (similar [5, 6]) với bề dày trầm tích của phần cánh nhỏ
hơn rất nhiều so với phần vòm. Sự tồn tại của các nếp uốn này làm cho bề dày của
các lớp trầm tích biến chất, đặc biệt là các lớp đá hoa tăng lên nhiều lần so
với bề dày nguyên thuỷ của chúng (Hình 2b). Do đó các cấu tạo của pha biến dạng
thứ nhất đã tạo nên môi trường đá vây quanh thuận lợi cho quá trình skarn và
greisen hoá dẫn đến tạo quặng, cũng như khống chế quy mô và hình thái của các
đới khoáng hoá sau này khi có sự xâm nhập của khối granit Đá Liền.
Pha biến dạng thứ hai (B2)
và các cấu tạo liên quan
Pha biến dạng thứ 2 (B2) cũng là một pha biến
dạng dẻo đặc trưng bởi sự tái uốn nếp các cấu tạo phân phiến hình thành trong
giai đoạn thứ nhất, tạo nên các nếp uốn kiểu ‘tương tự’ thế hệ thứ 2 (U2)
(Ảnh 2a, 2b) với vòm tương đối không nhọn, mặt trục cắm từ thoải đến tương đối
dốc về phía tây nam và trục cắm thoải về phía tây bắc (Hình 2b). Các nếp uốn này
thường đi kèm với các cấu tạo thớ chẻ mặt trục dạng thớ nhíu trong các đá trước
đó bị phân phiến mạnh mẽ (Ảnh 2b) và dạng thớ rỗng trong các đá cứng hơn như
granit của khối Núi Pháo. Các cấu tạo thuộc pha hai thường làm tái biến dạng các
cấu tạo hình thành trong pha thứ nhất, tạo nên sự giao thoa cấu tạo phức tạp
(Ảnh 1b, 2a, 2b, 2c). Các nếp uốn khu vực thế hệ thứ 2 đã tạo nên khung cấu trúc
khu vực có hướng tây bắc - đông nam của vùng nghiên cứu.
Các cấu tạo thuộc pha biến dạng thứ 2 vắng mặt trong granit
khối Đá Liền, chứng tỏ pha biến dạng này hình thành trước khi có sự xâm nhập của
khối đá magma này. Mặt khác, các cấu tạo thuộc thế hệ thứ hai cũng bị xoá nhoà
hoặc làm phức tạp hoá bởi quá trình skarn, greisen, và khoáng hoá đa kim (Ảnh
3a, 3b), chứng tỏ chúng được thành tạo trước quá trình tạo khoáng skarn. Tuy
nhiên, sự hình thành hàng hoạt cấu tạo trong pha này như các vòm nếp uốn lớn và
các hệ thống thớ chẻ mặt trục của chúng có thể đã tạo ra các kênh dẫn và bẫy cấu
trúc thuận lợi cho sự lưu chuyển dung dịch nhiệt dịch (chẳng hạn dọc theo các
vòm nếp uốn) và sự lắng đọng quặng về sau.
Pha biến dạng thứ 3 (B3)
và các cấu tạo liên quan
Đây là một pha biến dạng diễn ra trong môi trường giòn và
chỉ tạo thành các đới biến dạng riêng rẽ trong vùng nghiên cứu. Các đới này
thường là các đứt gãy dịch ngang và có phương chủ yếu từ tây bắc - đông nam tới
á vĩ tuyến và đông bắc - tây nam, đặc trưng bởi các mặt đứt gãy hoặc đới dập vỡ
(Ảnh 4a), các đới dăm kết hoặc cà nát (Ảnh 4b), các đới hematit hoá và các cấu
tạo lineamen trên ảnh hoặc các dải dị thường địa vật lý dạng tuyến. Các đới hoặc
mặt đứt gãy này cắt qua tất cả các cấu tạo mô tả trên đây, và đôi chỗ cắt qua cả
thân quặng đa kim (Ảnh 4a), mặc dù đôi nơi có một số mạch quặng thiếc hoặc đồng
nhỏ phát triển dọc theo phương kéo dài và có thể liên quan tới chúng (Ảnh 4b).
Dựa vào mối quan hệ giữa các cấu tạo thuộc pha biến dạng
này, có thể chia pha biến dạng thứ 3 thành hai phụ pha sau. Phụ pha 3a đặc trưng
bởi các đới đứt gãy có phương tây bắc - đông nam và á vĩ tuyến, trong đó có cả
“đứt gãy Đường 13A” (Hình 2a). Trước đây đứt gãy Đường 13A được xem như là một
yếu tố cấu trúc khu vực có lịch sử phát triển lâu dài và có thể đóng vai trò là
đường dẫn cho các thể magma xâm nhập xuyên lên [2]. Tuy nhiên, những quan sát
của chúng tôi cho thấy biểu hiện của đứt gãy này cũng như các yếu tố có cùng
phương phát triển tại thực địa rất yếu ớt hoặc không rõ ràng, kết hợp với sự cắt
xén thân quặng và các cấu tạo có trước chứng tỏ chúng là các cấu tạo phát triển
tương đối muộn. Phụ pha 3b được đặc trưng bởi các đứt gãy và đới dập vỡ có
phương chủ yếu là đông bắc - tây nam. Các cấu tạo này làm dịch chuyển các cấu
tạo của phụ pha 3a, chứng tỏ chúng là những cấu tạo phát triển muộn nhất trong
vùng nghiên cứu.
Các cấu tạo thuộc pha biến dạng thứ 3 đã làm phức tạp hoá
các thân quặng hoặc cấu trúc khu vực, nhưng không làm thay đổi đáng kể bình đồ
cấu trúc của vùng nghiên cứu nói chung. Những đặc điểm đó chứng tỏ rằng pha biến
dạng thứ ba xảy ra ít nhất là đồng thời hoặc muộn hơn quá trình xâm nhập của
khối granit Đá Liền cũng như quá trình tạo khoáng đa kim ở vùng nghiên cứu.
Sự giao thoa cấu tạo của hai
pha biến dạng thứ nhất và thứ hai
Như đã trình bày trên đây, bình đồ cấu trúc hiện tại của
vùng nghiên cứu hình thành từ sự giao thoa của 3 thế hệ cấu tạo trong 3 pha biến
dạng khác nhau. Tuy nhiên, các cấu tạo thuộc pha biến dạng thứ 3 chỉ là những
cấu tạo mặt riêng rẽ làm dập vỡ và phức tạp hoá các cấu tạo hình thành trước, mà
không tác động nhiều tới bình đồ cấu trúc khu vực như hai pha 1 và 2.
Các cấu tạo thuộc pha biến dạng
thứ hai đã làm biến dạng mạnh các cấu tạo thuộc pha biến dạng thứ nhất trong đó
có cả các cấu tạo nếp uốn, phân phiến và mylonit. Sự tái uốn nếp các nếp uốn sớm
(U1) bằng nếp uốn thế hệ thứ hai (U2) thường tạo nên sự
giao thoa nếp uốn trung gian giữa kiểu 2 và kiểu 3 (ảnh 1b, Hình 2b) [5, 6]. Sự
giao thoa uốn nếp kiểu này thường hình thành khi pha biến dạng thứ nhất tạo nên
hàng loạt nếp uốn hẹp và đẳng tà có mặt trục nằm nghiêng hoặc nằm ngang. Sau đó
các nếp uốn thế hệ 1 đều bị tái uốn nếp (Hình 2b). Trong trường hợp này, trường
ứng suất gây biến dạng trong pha 2 sẽ có phương khác với phương của trường ứng
suất biến dạng pha 1. Sự tồn tại của các nếp uốn kiểu tương tự [5] cũng cho thấy
rằng quá trình uốn nếp ở đây chủ yếu là uốn cắt và thường liên quan tới các
chuyển động kiến tạo dịch trượt có quy mô lớn [5, 6].
Rõ ràng là sự giao thoa của hai
thế hệ cấu tạo thuộc hai pha biến dạng thứ nhất và thứ hai đã tạo nên hình thái
cấu trúc khu vực. Hơn thế nữa, sự uốn nếp lặp lại của các đá trầm tích hệ tầng
Phú Ngữ cho thấy bề dày thực của hệ tầng này trên thực tế nhỏ hơn rất nhiều so
với bề dày quan sát mà không tính tới sự làm dày kiến tạo.
2. Sự khống chế của cấu trúc đối với quặng hoá và trình tự của các sự kiện
địa chất trong vùng nghiên cứu
Như đã trình bày ở trên, các pha biến dạng thứ nhất và thứ
hai thường bị các cấu tạo đồng tạo quặng xoá nhoà hoặc biến vị..
Ngược lại các khoáng vật quặng thường giữ nguyên cấu tạo nguyên sinh của chúng
và thường mọc chồng lên cấu tạo nền được tạo thành trong pha biến dạng 1 hoặc 2
(ảnh 3a, 3b), chứng tỏ chúng hình thành sau các cấu tạo này, và do đó có lịch sử
muộn hơn các pha biến dạng nói trên và có thể là đồng thời với quá trình xâm
nhập của khối granit Đá Liền.
Cấu hình hiện tại của thân quặng trải dài theo phương tây
tây bắc - đông đông nam, trùng với phương kéo dài của các nếp uốn U2
và thường phụ thuộc vào bề dày của lớp đá hoa hoặc silic vôi của hệ tầng Phú Ngữ
do các nếp uốn đẳng cánh U1 tạo nên (Hình 2b). Việc xây dựng lại các
mặt cắt địa chất cũng cho thấy tại nhiều nơi ranh giới xâm nhập của khối granit
Đá Liền thường có xu hướng nằm gần song song với mặt trục của nếp uốn U2,
hoặc rất nhiều thể granit nhỏ thường xâm nhập dọc theo thớ chẻ mặt trục của nếp
uốn U2, đặc biệt là ở phần vòm của các nếp uốn này. Như vậy, các vòm
nếp uốn với sự phát triển mạnh mẽ của các thớ chẻ mặt trục có thể là vị trí
thuận lợi cho dung dịch magma lưu chuyển và trở thành các bẫy kiến tạo lý tưởng
cho quá trình lắng đọng quặng về sau. Sự xâm nhập của khối Đá Liền mang các dung
dịch chứa quặng vào các vị trí thích hợp như các lớp đá hoa dọc theo đới vòm của
các nếp uốn U1 hoặc U2 trong những điều kiện hoá lý thích
hợp sẽ tạo ra những thân quặng đa kim có quy mô lớn.
Mặc dù còn thiếu nhiều số liệu định lượng liên quan tới mối
quan hệ và tuổi của các sự kiện biến dạng và tạo quặng, nhưng dựa vào mối quan
hệ giữa biến dạng và quá trình tạo quặng thì một trình tự tương đối của các sự
kiện địa chất trong vùng mỏ Núi Pháo có thể được tái lập khái quát như sau: sự
phát triển địa chất và sự hình thành quặng hoá đa
Do các đá trầm tích biến chất bị skarn hoá thường có biểu
hiện từ tính mạnh nên diện phân bố của chúng có thể nội suy thông qua kết quả
khảo sát địa vật lý (Hình 4), theo đó thì diện tích của hệ tầng Phú Ngữ có thể
còn trải rộng ra phía tây bắc của vùng nghiên cứu và có thể đã bị uốn nếp lặp đi
lặp lại (Hình 4). Vì hiện tượng skanơ hoá phát triển rộng rãi trong toàn vùng
nghiên cứu, nên có thể cho rằng các đá trầm tích đã bị biến chất dưới tác động
của một nguồn nhiệt rất lớn chỉ có thể có được nhờ một thể granit rất lớn. Như
vậy, khối granit Đá Liền có thể có diện phân bố rất lớn ở dưới sâu và nếu hệ
tầng Phú Ngữ với các cấu tạo chứa quặng thuận lợi như các nếp uốn U1 và U2
phát triển mang tính khu vực ra ngoài phạm vi thân quặng hiện tại thì quy mô của
các thân quặng đa kim còn lớn hơn nhiều. Trong trường hợp này, cả về phía tây
bắc và đông nam của thân quặng hiện tại đều có thể có tiềm năng của quặng đa kim
(Hình 4).
III. KẾT LUẬN
Những nghiên cứu của chúng tôi đề cập trên đây cho phép rút
ra những kết luận sau.
Vùng Núi Pháo chịu tác động bởi ít nhất 3 pha biến dạng khu
vực, trong đó có hai pha biến dạng dẻo và một pha biến dạng giòn. Pha biến dạng
thứ nhất làm uốn nếp mạnh mẽ các đá trầm tích lục nguyên - carbonat thuộc hệ
tầng Phú Ngữ, tạo nên hàng loạt nếp uốn đẳng cánh làm dày các trầm tích lên
nhiều lần. Pha biến dạng thứ hai tái uốn nếp các cấu tạo hình thành trong pha 1
và tạo nên hình thái cấu trúc chủ yếu của khu vực. Các biến dạng giòn thuộc pha
3 làm phức tạp hoá các thành tạo có trước nhưng không làm thay đổi đáng kể bình
đồ cấu trúc khu vực.
Mặc dù mỏ đa kim Núi Pháo là một mỏ skarn liên quan tới quá
trình xâm nhập của các đá granitoiđ tuổi Creta muộn và phát triển sau khi cấu
trúc khu vực đã được thành tạo, nhưng quy mô và sự phân bố của nó chịu sự tác
động mạnh mẽ của các yếu tố cấu trúc khu vực tiền tạo quặng. Do đó quy mô khu
vực cũng như sự tồn tại của các thân quặng tương tự cũng có thể dự đoán từ việc
phân tích cấu trúc khu vực và mối quan hệ của chúng với magma xâm nhập.
Việc bổ sung các số liệu định lượng về cấu tạo và tuổi là
rất cần thiết để có thể xác định được hình thái cấu trúc một cách đúng đắn nhất
cũng như trình tự chính xác của các sự kiện địa chất đã diễn ra trong vùng và
mối liên quan của chúng tới quặng hoá trong vùng nghiên cứu.
VĂN LIỆU
1. Đỗ Hải Dũng, 1983. Về
các kiểu khoáng hoá vàng và bạc mới phát hiện được ở vùng Núi Pháo - Đá Liền. Bản đồ địa chất, 56 : 49-58.
2.
3.
4. Phạm Đình Long, 2001. Bản đồ địa chất và khoáng sản
tờ
5.
6.
7.
8.
9. Tran Thanh Hai, Farmer M. and Stemler J., 2003. The
structural controls on mineralisation at the Núi Pháo Polymetallic
(W-F-Cu-Au-Bi) Deposit,