BIẾN CHẤT
VA CHẠM LỤC ĐỊA Ở ĐỊA KHỐI KON TUM ?
TRẦN NGỌC NAM1, Y. OSANAI2,
1Đại học Khoa học Huế, 77 Nguyễn Huệ, Huế.
2Kyushu University, Fukuoka 810-8560, Japan
Tóm tắt: Các đá biến chất nhiệt độ siêu cao ở địa khối Kon
Tum bao gồm các đá gneis granat-orthopyroxen-silimanit- thạch anh (granulit
pelit) và gneis granat-clinopyroxen -orthopyroxen- thạch anh (granulit mafic)
gặp trong loạt Kan Nack (vùng Kan Nack) và các thấu kính trong loạt Ngọc Linh ở
vùng Đak To Kan, trong một đới chạy theo phương TB-ĐN. Các granulit này là kết
quả của quá trình biến chất có đỉnh biến chất đạt nhiệt độ T = 1050ºC tại áp
suất P = 12 kbar, được đặc trưng bằng một quá trình giảm áp gần như đẳng nhiệt
(từ 18 kbar xuống 10 kbar) và theo sau nó là quá trình giảm nhiệt gần như đẳng
áp. Tài liệu tuổi đồng vị phóng xạ bằng nhiều phương pháp đã xác định hoạt động
biến chất siêu cao ở địa khối Kon Tum xảy ra trong thời gian Permi-Trias, nằm
trong khoảng 260-245 tr.n., cho thấy các thành tạo biến chất nhiệt độ siêu cao ở
địa khối Kon Tum có đặc điểm tương đồng cả về đặc điểm và thời gian biến chất
với các thành tạo biến chất ở ranh giới va chạm lục địa giữa hai lục địa Bắc và
Nam Trung Hoa. Kết quả này cho phép giả định về khả năng địa khối Kon Tum chính
là ranh giới va chạm lục địa giữa địa khu Đông Dương với lục địa Nam Trung Hoa,
mở ra một hướng mới trong việc xem xét tiến hoá kiến tạo của khu vực.
MỞ ĐẦU
Địa khối Kon Tum là
nơi xuất lộ móng kết tinh lớn nhất của địa
khu Đông Dương. Địa khu này được
nhiều nhà địa chất coi là hợp phần của lục địa Gondwana, mặc dù ranh giới giữa
nó với lục địa Nam Trung Hoa vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau như đới đứt gẫy Sông
Hồng, đới khâu Sông Mã, hay xa hơn về phía nam là đới khâu Tam Kỳ - Phước Sơn.
Các phức hệ móng kết tinh lộ ra ở địa khối Kon Tum là những đá biến chất cao
đang được xếp vào các thành tạo Tiền Cambri, bao gồm các granulit loạt Kan Nack,
các đá biến chất tướng amphibolit loạt Ngọc Linh và hệ tầng Khâm Đức [14]. Các
đá của loạt Kan Nack tạo nên phần trung tâm của địa khối Kon Tum bao gồm chủ yếu
granulit mafic hai-pyroxen, các đá gneis granat- corđierit-hypersthen (granulit
pelit), calciphyr. Các đá magma đi kèm loạt Kan Nack là những thành tạo xâm nhập
thuộc nhóm charnockit-enđerbit, vì vậy loạt Kan Nack trước đây được xếp vào tuổi
Archei trên cơ sở đối sánh với các thành tạo granulit Archei “kinh điển” của thế
giới [14]. Mặt khác, các quan điểm truyền thống mô tả địa khối Kon Tum như một
cấu trúc dạng vòm do sự lớn dần của lục địa Tiền Cambri, biểu hiện qua sự giảm
dần mức độ biến chất từ tướng granulit ở trung tâm (loạt Kan Nack), qua tướng
amphibolit (loạt Ngọc Linh) và giảm xuống mức độ biến chất thấp hơn ở ven rìa
(hệ tầng Khâm Đức). Tuy nhiên, những nghiên cứu chuyên đề gần đây đã cung cấp
những tài liệu địa niên biểu phóng xạ có độ tin cậy cao cho thấy biến chất tướng
granulit của loạt Kan Nack đã xảy ra trong thời gian Inđosini, trẻ hơn nhiều so
với tuổi Archei trước đây, nằm trong khoảng 260-245 triệu năm (tr.n), ghi nhận
từ tuổi U-Pb zircon trong các mẫu đá gneis granulit và các mẫu xâm nhập
charnockit-enđerbit đi kèm [1, 4, 11]. Hơn nữa, các nghiên cứu chuyên đề về
thạch luận, biến chất địa khối Kon Tum mới đây đã phát hiện thấy các đá biến
chất nhiệt độ siêu cao (900-1050ºC) không những phổ biến trong diện lộ của loạt
Kan Nack [8, 12] mà còn gặp cả trong thành phần của loạt Ngọc Linh dưới dạng
những thấu kính, những khối nằm kẹp giữa các đá gneis có cấu tạo mylonit [5, 6].
Thực tế này đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu hơn nhằm xem xét lại địa chất
của địa khối Kon Tum nói chung, và đặc biệt, cần xem xét lại lịch sử biến chất
và tiến hoá kiến tạo của các phức hệ móng kết tinh ở địa khối Kon Tum nói riêng.
Bài báo này giới
thiệu những kết quả mới nhất về nghiên cứu thạch luận các đá biến chất nhiệt độ
siêu cao ở địa khối Kon Tum, kết quả nghiên cứu xác định tuổi đồng vị cho các
thành tạo thuộc móng kết tinh ở địa khối này. Các kết quả thu được cho thấy địa
khối Kon Tum có thể là nơi va chạm giữa
địa khu Đông Dương với lục địa
Các đá biến chất nhiệt độ siêu cao là các đá đã trải qua quá trình biến
chất ở các điều kiện nhiệt độ cao hơn 850ºC. Những nghiên cứu chuyên đề mới đây
cho thấy các đá biến chất nhiệt độ siêu cao (850-1050ºC) có mặt trong thành phần
của loạt Kan Nack [8, 9, 12], và có mặt cả trong thành phần của loạt Ngọc Linh
[5, 6]. Trong loạt Kan Nack, các granulit nhiệt độ siêu cao bao gồm các gneis
granat-orthopyroxen-silimanit- thạch anh (granulit pelit) và gneis granat-
clinopyroxen -orthopyroxen- thạch anh (granulit mafic) gặp ở Kan Nack cùng với
các tổ hợp granulit bình thường khác như gneis granat-corđierit-
silimanit-biotit, calciphyr. Các nghiên cứu thạch luận biến chất cho thấy các tổ
hợp khoáng vật cộng sinh trong các gneis granat-orthopyroxen -silimanit- thạch
anh (granulit pelit nhiệt độ siêu cao) và gneis granat-clinopyroxen-
orthopyroxen- thạch anh (granulit mafic nhiệt độ siêu cao) này bền vững trong
trường nhiệt độ có đỉnh biến chất đạt nhiệt độ T = 1000-1050ºC và áp suất P =
11-12 kbar, trong khi các granulit bình thường khác được thành tạo trong điều
kiện T = 750-850ºC và P = 6,5-7 kbar [8, 12]. Trong loạt Ngọc Linh, các đá
granulit granat-clinopyroxen- orthopyroxen (granulit mafic nhiệt độ siêu cao)
gặp phổ biến dưới dạng các thấu kính hoặc các khối có kích thước khác nhau nằm
kẹp giữa các lớp đá gneis có cấu tạo mylonit khác (Hình 1). Các tính toán áp
suất - nhiệt độ cho thấy điều kiện biến chất của các granulit mafic này đạt đỉnh
áp suất P = 16-18 kbar ở 950ºC, theo sau là đỉnh nhiệt độ T = 1050ºC tại áp suất
12 kbar [6]. Các đá gneis vây quanh có cấu tạo mylonit điển hình với các tổ hợp
khoáng vật cộng sinh như granat-silimanit-biotit tiêu biểu cho tướng biến chất
amphibolit có điều kiện áp suất - nhiệt độ thấp hơn.
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
* Việc phát hiện các đá biến chất
nhiệt độ siêu cao ở địa khối Kon Tum là rất quan trọng và lý thú, tuy nhiên cần
có những số liệu hoá học chính xác thêm đặc biệt là của hypersthen, granat cũng
như cấu trúc và quan hệ địa chất của đới va chạm giữa các khối Đông Dương và Nam
Trung Hoa (BBT).
Kết hợp các kết quả
nghiên cứu thạch luận, thạch địa hoá, các kết quả tính toán điều kiện biến chất
bằng các mô hình địa nhiệt - áp kế (geothermo-barometry), lịch sử biến chất của
các đá granulit nhiệt độ siêu cao ở địa khối Kon Tum được minh hoạ trên giản đồ
áp suất - nhiệt độ (P-T) ở Hình 2. Trên Hình 2, đường cong P-T cho các granulit
pelit (loạt Kan Nack) được xác định bắt đầu từ khi điều kiện biến chất đạt đỉnh
cực đại tại T = 1000-1050ºC và P = 11-12 kbar (giai đoạn M1 trên Hình
2). Tuy nhiên, granulit granat-clinopyroxen-orthopyroxen trong loạt Ngọc Linh
cho thấy có sự thay đổi trong thành phần các tổ hợp khoáng vật cộng sinh như
granat-clinopyroxen- thạch anh, clinopyroxen-orthopyroxen-(granat) và horblenđ -
thạch anh. Sự thay đổi này là kết quả của quá trình biến chất đã tác dụng lên
các mẫu đang xét. Tổ hợp granat-clinopyroxen- thạch anh bền vững trong điều kiện
áp suất P = 16-18 kbar và nhiệt độ T = 900-1000ºC, xác định điều kiện biến chất
cho giai đoạn đầu tiên (giai đoạn nguyên thuỷ M0 trên Hình 2). Tổ hợp
clinopyroxen-orthopyroxen-(granat) bền vững trong điều kiện P = 12-13 kbar và T
= 1000ºC (giai đoạn M1), và khi quá trình biến chất giảm xuống điều
kiện khoảng P = 8-9 kbar và T = 850-900ºC sẽ thành tạo horblenđ, tạo nên tổ hợp
khoáng vật thứ ba (giai đoạn M2). Nếu coi các đá biến chất siêu cao
trong loạt Ngọc Linh và loạt Kan Nack có chung một bối cảnh nhiệt - kiến tạo thì
lịch sử biến chất của các granulit nhiệt độ siêu cao ở địa khối Kon Tum có thể
được tái tạo như trên Hình 2. Đường cong P-T trên Hình 2 là đường cong thuận
chiều kim đồng hồ với điều kiện đỉnh biến chất đạt được tại P = 12 kbar và T =
1050ºC (M1). Giai đoạn biến chất áp suất cao M0 là phần
biến chất tiến triển trước khi quá trình biến chất đạt đỉnh cực đại, và giai
đoạn áp suất thấp M2 (nhưng nhiệt độ vẫn siêu cao) là phần biến chất
lùi trong tiến trình biến chất siêu cao kể trên. Như vậy, có thể phân biệt được
hai quá trình giảm áp gần như đẳng nhiệt
(từ M0 đến sau M1) và
giảm nhiệt gần như đẳng áp (từ sau M1 đến M2) trong
lịch sử biến chất nhiệt độ siêu cao của các đá granulit nhiệt độ đang xét.
II. ĐỊA NIÊN BIỂU ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ CỦA CÁC PHỨC HỆ MÓNG KẾT TINH Ở ĐỊA KHỐI
KON TUM
Theo truyền thống,
các granulit và các phức hệ magma enđerbit-charnockit đi kèm loạt Kan Nack trước
đây được xếp vào Archei, chủ yếu dựa vào mức độ biến chất, đặc điểm thạch học và
liên hệ đối sánh với các loạt biến chất Archei phân bố ở Ấn Độ và các khiên
Alđan, Okhot, Khankai (Liên bang Nga). Trong cố gắng tìm dẫn liệu tin cậy nhằm
xác định tuổi cho các thành tạo biến chất cao thuộc móng kết tinh ở địa khối Kon
Tum, nhiều tác giả đã áp dụng các phương pháp tuổi đồng vị phóng xạ khác nhau,
tiến hành phân tích ở nhiều phòng thí nghiệm, trên nhiều loại đá và nhiều khoáng
vật. Kết quả của các nghiên cứu này được liệt kê tóm tắt ở Bảng 1 (sơ đồ vị trí
của các mẫu có thể tham khảo [13]).
Bảng 1 cho thấy các
kết quả phân tích tuổi đồng vị phóng xạ các phức hệ móng kết tinh ở địa khối Kon
Tum có 3 nhóm tuổi. Nhóm thứ nhất có tuổi Permi-Trias nằm trong khoảng 240-260
tr.n. Nhóm này bao gồm 05 mẫu granulit loạt Kan Nack, 03 mẫu charnockit phức hệ
Sông Ba, 02 mẫu granulit nhiệt độ siêu cao loạt Ngọc Linh, và các mẫu khoáng vật
muscovit trong pegmatit và biotit trong orthogneis phức hệ Đại Lộc. Nhóm thứ hai
có tuổi 410-450 tr.n (Orđovic-Silur) thuộc các mẫu zircon phức hệ Đại Lộc (02
mẫu) và phức hệ Sông Re (04 mẫu). Nhóm thứ ba là các nhóm tuổi cổ hơn, bao gồm
480-500 tr.n của một số ít các tinh thể monazit trong mẫu 420T1A granulit loạt
Kan Nack, 678 tr.n của amphibolit phức hệ Phù Mỹ, và các nhân zircon di sót kế
thừa có tuổi 1400 tr.n trong mẫu KT13108 granulit loạt Kan Nack và tuổi 860
tr.n, 2540 tr.n trong mẫu KT318 phức hệ Sông Re. Ý nghĩa địa chất của các nhóm
tuổi này sẽ được bàn đến ở mục sau và phần nào đã trình bày trong các nghiên cứu
khác [13].
Bảng 1. Tóm tắt các
kết quả nghiên cứu tuổi đồng vị phóng xạ ở địa khối
Số
hiệu mẫu |
Tên đá |
Vị
trí (phức hệ), toạ độ (vĩ B; kinh Đ) |
Tuổi
|
Phương pháp xác định tuổi |
Tác giả |
Đới trượt Đak To |
|||||
KT13108 |
Gt-Sil-Bt gneis |
|
254±12 (1400)1 242±2 |
SHRIMP zircon K-Ar biotit |
Nam et al., 2001 |
VN105 |
Gneis |
|
248±6 |
SHRIMP zircon |
Carter et al., 2001 |
VN107 |
Gneis |
|
243±5 |
SHRIMP zircon |
Carter et al., 2001 |
VN108 |
Migmatit |
|
256±6 |
SHRIMP zircon |
Carter et al., 2001 |
420T1A |
Gt-Sil-Opx gneis |
|
248±2 (480-500)2 |
CHIME monazit |
Osanai et al., 2001 |
VN357 |
Charnockit |
14º15’45”; 108º30’17” |
258±6 249±2 243±4 |
SHRIMP zircon U-Pb zircon Ar-Ar biotit |
Carter et al., 2001 Nagy et al., 2001 Nagy et al., 2001 |
VN343 |
Charnockit |
12º46’47”; 108º40’50” |
253±2 |
U-Pb zircon |
Nagy et al., 2001 |
KT289 |
Charnockit |
14º15’07”; 108º30’02” |
260±16 |
SHRIMP zircon |
Nghiên cứu này |
GOCH |
Eclogit |
Ngọc Linh |
240±2 |
Sm-Nd |
Nakano et al., 2003 |
GOB |
Gt-Opx-bt gneis |
Ngọc Linh |
247±1 |
Sm-Nd |
Nakano et al., 2003 |
Đới trượt Đà Nẵng - Đại Lộc |
|||||
VN610 |
Gneis |
Đại Lộc |
418±8 |
SHRIMP zircon |
Carter et al., 2001 |
VN13 |
Gneis |
Đại Lộc |
407±11 |
SHRIMP zircon |
Carter et al., 2001 |
|
Orthogneis |
Đại Lộc |
246±1 |
Ar-Ar biotit |
Lepvrier et al., 1997 |
DL01 |
Orthogneis |
Đại Lộc |
245±5 |
K-Ar biotit |
|
DL02 |
Pegmatit |
Đại Lộc |
258±5 |
K-Ar muscovit |
|
Nằm ngoài đới Đak To |
|||||
VN385 |
Gneis |
|
444±17 |
SHRIMP zircon |
Carter et al., 2001 |
VN386 |
Granođiorit |
14º36’49”; 107º51’31” |
451±3 |
U-Pb zircon |
Nagy et al., 2001 |
VN387 |
Hb-Bt gneis |
|
380±6 |
Ar-Ar biotit |
Nagy et al., 2001 |
VN388 |
Bt-amphibolit |
14º39’06”; 107º47’20” |
424±10 |
Ar-Ar biotit |
Nagy et al., 2001 |
KT318 |
Hb-Bt gneis |
14º46’05”; 108º31’07” (Sông Re) |
436±10 (860;2540)1 |
SHRIMP zircon |
|
GAPM |
Gt amphibolit |
|
678±23 |
Sm-Nd |
Osanai et al., 2003 |
(
)1: Tuổi nhân di sót kế thừa của zircon. ( )2:
Tuổi CHIME của một số ít monazit.
Sơ đồ vị trí mẫu xem [10]
III. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
1. Các pha nhiệt kiến sinh ở địa khối
Kon Tum
Từ Bảng 1 có thể thấy
rằng, các mẫu granulit nhiệt độ siêu cao (thuộc loạt Kan Nack) và các mẫu
charnockit đi kèm ở vùng Kan Nack có cùng tuổi với các mẫu granulit mafic nằm
trong loạt Ngọc Linh ở vùng Đak To Kan (Đắc Tô), xác định tuổi cho pha biến chất
nhiệt độ siêu cao xảy ra trong thời gian Permi-Trias, nằm trong khoảng 245-260
tr.n. Áp dụng các mô hình nhiệt độ đóng cho các hệ đồng vị U-Pb trong zircon tự
nhiên Tđ =
900-1000ºC, U-Pb trong monazit Tđ = 700ºC, là các mô hình được đa số
các nhà địa chất thừa nhận, có thể xây dựng được lịch sử biến chất - trồi lộ
(đường cong áp suất - nhiệt độ - thời gian: P-T-t) cho các thành tạo granulit
nhiệt độ siêu cao như trên Hình 2. Theo đường cong P-T-t trên Hình 2 thì các
granulit nhiệt độ siêu cao ở địa khối Kon Tum có thể đạt đỉnh biến chất (T =
1000-1050ºC; M1) vào khoảng thời gian 260 tr.n trước (tuổi SHRIMP
U-Pb của các mẫu charnockit đi kèm granulit Kan Nack), theo sau là quá trình
biến chất lùi giảm áp gần như đẳng nhiệt trong khoảng từ 260 tr.n đến 250 tr.n
(tuổi CHIME U-Pb monazit). Các thành tạo biến chất này sẽ giảm nhiệt đến nhiệt
độ khoảng 350ºC ở thời gian 242-243 tr.n trước, được xác định bằng tuổi K-Ar và
Ar-Ar của các khoáng vật biotit đi kèm. Như vậy có thể kết luận rằng quá trình
biến chất nhiệt độ siêu cao ở địa khối Kon Tum và theo sau nó là quá trình biến
chất lùi (ở tướng granulit bình thường và tướng amphibolit) đã xảy ra trong
khoảng thời gian 245-260 tr.n trước.
Các zircon trong
horblenđ-biotit gneis (orthogneis) của phức hệ Đại Lộc cho tuổi SHRIMP U-Pb
trong khoảng 407-418 tr.n, trong khi muscovit và biotit của phức hệ cho tuổi
K-Ar và Ar-Ar trẻ hơn, khoảng 245-258 tr.n. Tuổi SHRIMP U-Pb zircon này xác định
tuổi kết tinh magma cho phức hệ là Silur, phù hợp với kết luận tuổi phức hệ
“trước Đevon” của các quan niệm trước đây [2]. Các giá trị tuổi 245-258 tr.n của
các khoáng vật muscovit và biotit định tuổi của pha biến chất - biến dạng liên
quan với hoạt động trượt bằng của đới trượt Đà Nẵng - An Điềm trong thời gian
“Inđosini”. Tương tự, các mẫu orthogneis phức hệ Sông Re có các tinh thể zircon
có tuổi U-Pb là 436-451 tr.n, xác định tuổi kết tinh magma của phức hệ. Như vậy,
các kết quả này xác nhận có mặt một pha magma - kiến tạo tích cực hoạt động ở
địa khối Kon Tum trong thời gian Orđovic-Silur (410-450 tr.n) tương ứng với “chu
kỳ Caleđoni”. Tuy nhiên hiện vẫn còn chưa rõ bản chất bối cảnh địa động lực của
pha magma - kiến tạo này, bởi vì trên cơ sở nghiên cứu địa hoá đồng vị nguyên tố
các phức hệ, Nagy et al (2001) [4] cho rằng các magma này gần gũi với magma cung
núi lửa (bối cảnh địa động lực đới hút chìm), trong khi Lan et al (2003) [3] lại
cho chúng liên quan với magma của đới tách giãn rift.
Các giá trị tuổi cổ
hơn trong Bảng 1 bao gồm 480-500, 670, 860 và 1400 tr.n có thể là dấu vết của
các pha nhiệt - kiến tạo “tiền Caleđoni”, cho thấy các phức hệ kết tinh ở địa
khối Kon Tum đã trải qua quá trình biến chất đa pha phức tạp, tuy nhiên cần có
nhiều nghiên cứu chuyên đề tiếp theo trước khi đi đến các kết luận tin cậy về
đặc điểm của các pha nhiệt - kiến tạo này.
2. Ranh giới va chạm lục địa với biến chất siêu cao ở địa khối Kon Tum?
Các granulit nhiệt độ
siêu cao loạt Kan Nack và các granulit mafic (eclogit) nhiệt độ siêu cao trong
loạt Ngọc Linh lộ thành một đới có phương TB-ĐN ở vùng Đak To Kan. Các thành tạo
này bị biến chất ở điều kiện nhiệt độ siêu cao đặc trưng bằng một quá trình giảm áp đẳng nhiệt, theo sau là quá trình giảm nhiệt gần như đẳng áp
xảy ra trong thời gian Permi-Trias (Hình 2). Các mẫu orthogneis phía nam vùng
Đak To Kan (tây thị xã Kon Tum) và xa về phía bắc (phức hệ Sông Re, tây Quảng
Ngãi) đều có zircon định tuổi U-Pb đạt giá trị 436-451 tr.n và tuổi Ar-Ar biotit
là 339-424 tr.n (Bảng 1). Do nhiệt độ đóng của hệ đồng vị K-Ar trong biotit chỉ
nằm trong khoảng 325±25ºC nên các dẫn liệu trong Bảng 1 chứng tỏ các mẫu
orthogneis đang xét không chịu ảnh hưởng của các hoạt động nhiệt - kiến sinh
nhiệt độ cao trong khoảng 424-339 tr.n cuối cùng. Như vậy hoạt động biến chất
siêu cao tuổi 245-260 tr.n (Permi-Trias) ở địa khối Kon Tum chỉ hạn chế trong
một đới, chúng tôi tạm gọi là đới Đak To Kan, có phương chính gần TB-ĐN, xác
định dựa trên cơ sở phương của các cấu tạo gneis-mylonit vùng Đak To Kan (Kon
Đào - đèo Mang Rơi), cũng là phương nối giữa hai vùng xuất lộ các thành tạo biến
chất siêu cao mô tả ở các phần trên. Các đặc điểm hình thái (chiều dài, chiều
rộng), động học biến dạng của đới đang là những chủ đề mở, chờ đợi các nghiên
cứu trong tương lai.
Các thành tạo biến
chất nhiệt độ siêu cao và áp suất siêu cao đã được phát hiện và mô tả nhiều nơi
ở châu Á, phân bố dọc theo ranh giới giữa hai khối lục địa Nam và Bắc Trung Hoa,
bao gồm các đới Quinling - Dabie ở Trung Quốc, Gyeonggi ở bán đảo Triều Tiên,
Higo ở Nhật Bản. Tuổi biến chất siêu cao của các địa khu vừa kể được xác định
bằng nhiều phương pháp cho kết quả nằm trong khoảng 240-260 tr.n và chúng được
coi là sản phẩm của quá trình va chạm lục địa trong thời gian Permi-Trias để
thành tạo siêu lục địa Pangea. Đặc điểm biến chất kiểu va chạm lục địa ở các đới
vừa nêu đều được đặc trưng bằng quá trình
giảm áp đẳng nhiệt trên giản đồ P-T. Các đá biến chất nhiệt độ siêu cao ở
địa khối Kon Tum có đặc điểm tương đồng với các thành tạo biến chất dọc ranh
giới va chạm lục địa của lục địa Nam Trung Hoa kể trên, cả về tướng biến chất,
đường cong P-T, và thời gian biến chất, cho thấy có một mối quan hệ gần gũi,
liên quan giữa các địa khu biến chất siêu cao này.
Từ những nhận xét
trên đây có thể giả định rằng địa khối Kon Tum là nơi có ranh giới va chạm lục
địa xảy ra trong thời gian Permi-Trias giữa địa khu Đông Dương và lục địa Nam
Trung Hoa. Tuy nhiên, nếu coi các thành tạo biến chất áp suất siêu cao - nhiệt
độ siêu cao là dấu hiệu trực tiếp của ranh giới va chạm lục địa Nam Trung Hoa
như ở đới Dabie (Trung Quốc) thì cần tìm kiếm yếu tố “áp suất siêu cao” cho các
tổ hợp biến chất nhiệt độ siêu cao ở địa khối Kon Tum để giả định về ranh giới
va chạm lục địa ở Kon Tum gần hơn với thực tế. Vẫn còn nhiều việc phải làm trước
khi có được một kết luận chắc chắn, nhưng giả định này mở ra một hướng mới trong
việc xem xét lịch sử tiến hoá kiến tạo cho khu vực.
Công trình này được
hoàn thành trong khuôn khổ của đề tài Khoa học NCCB mã số 710402 của Hội đồng
Khoa học tự nhiên.
VĂN LIỆU
1. Carter, A., Roques, D., Bristow, C. and Kinny, P.,
2001. Understanding Mesozoic
accretion in
2. Đào Đình Thục,
3. Lan C-Y., Chung S-L., Long T.V., Lo C-H., Lee
T-Y., Mertzman S.A. and Shen J., 2003. Geochemical and Sr-Nd isotopic constraints from the Kontum massif,
4. Nagy E.A., Maluski H., Lepvrier C., Schärer U.,
Phan Trường Thị, Leloup A. and Vũ Văn Tích, 2001. Geodynamic significance of the Kontum Massif in
5.
6. Nakano N., Osanai Y., Owada M., Tran Ngoc Nam,
Tsunogae T., Toyoshima T. and Pham Binh, 2004. Decompression process of mafic granulite from
eclogite to granulite facies under ultrahigh- temperature condition in the
Kontum Massif,
7. Osanai Y., Owada M., Tsunogae T., Toyoshima T.,
Hokada T., Trinh Van Long, Sajeev K. and Nakano N., 2001. Ultrahigh-temperature pelitic granulites from
8. Osanai Y., Nakano N., Owada M., Tran Ngoc Nam,
Toyoshima T., Tsunogae T. and Kagami H., 2003. Metamorphic and tectonic evolution of
9. Osanai Y., Nakano N., Owada M., Tran Ngoc Nam,
Toyoshima T., Tsunogae T. and Pham Binh, 2004. Permo-Triassic ultrahigh-temperature metamorphism
in the Kontum Massif,
10. Tran Ngoc
11.
12.
13. Trần Ngọc
14.