NGHIÊN
CỨU DỰ BÁO TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CÁC ĐỚI SA KHOÁNG VEN BIỂN MIỀN TRUNG THEO
ĐẶC ĐIỂM DỊ THƯỜNG PHÓNG XẠ
LÊ KHÁNH PHỒN1, VÕ NGỌC ANH2,
NGUYỄN VIỆT HÙNG3
1Trường
Đại học Mỏ Địa chất, Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội
2Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Bình Định,
3Viện Năng lượng nguyên tử
Việt Nam, Lý Thường Kiệt, Hà Nội
Tóm tắt: Quặng sa khoáng
ven biển được xác định theo dị thường phổ gamma hàng không có bản chất thori.
Giá trị cường độ gamma mặt đất hoặc cường độ gamma hàng không tính chuyển về mức
mặt đất sau khi đă có các hiệu chỉnh cần thiết là căn cứ để khoanh nối các thân
quặng sa khoáng và vạch ra các diện tích bị ô nhiễm phóng xạ ở các mức độ khác
nhau.
Các kết quả điều tra địa chất - khoáng sản đã khẳng định ven biển miền
Trung nước ta có tiềm năng lớn về các loại sa khoáng
ilmenit, zircon, monazit có chứa các chất phóng xạ. Sa khoáng biển có lợi ích
kinh tế lớn, đồng thời cũng có thể gây ra sự ô nhiễm phóng xạ. Bài báo này thảo
luận vấn đề nghiên cứu dự báo tài nguyên và môi trường các đới sa
khoáng ven biển miền Trung theo đặc điểm các dị thường phóng xạ lấy ví dụ trên
vùng ven biển Bình Định.
I. NGHIÊN
CỨU ĐẶC ĐIỂM CÁC DỊ THƯỜNG PHÓNG XẠ TRÊN CÁC ĐỚI SA KHOÁNG VEN BIỂN
Để làm sáng tỏ đặc điểm các dị thường phóng xạ trên các đới sa khoáng ven
biển miền Trung, đă tiến hành xây dựng mô hình các mỏ sa khoáng; trên cơ sở các
mô hình này đã tiến hành tính toán nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm dị thường phóng
xạ liên quan với quặng sa khoáng ven biển miền Trung.
1. Mô hình địa chất - địa
vật lý quặng sa khoáng ven biển miền Trung
Sa khoáng biển Việt
Trên cơ sở phân tích tổng hợp tài liệu hiện có [Nguyễn
Kim Hoàn và nnk, 1985; Nguyễn Tiến Thuận và nnk, 1998. Lưu trữ Địa chất],
các thân quặng sa khoáng ven biển miền Trung đã được mô hình hoá như sau: các mỏ
quặng gồm các thân quặng hầu hết không bị phủ, quặng có chiều dày từ 1,25 đến
9,5 m, bão hoà theo tia gamma (chiều dày bão hoà theo tia gamma h >1 m), bề rộng
50-1000 m bão hoà theo tia gamma (bề rộng vỉa bão hoà theo tia gamma khi l >125
g/cm2 là l >40 cm), chiều dài hàng nghì́n mét, có thể coi như kéo dài
vô hạn.
Các kết quả nghiên cứu chỉ rõ hàm lượng quặng sa
khoáng ven biển có mối tương quan tỉ lệ thuận với hàm lượng chất phóng xạ thori,
dị thường phóng xạ trên các đới sa khoáng là dị thường bản chất thori và do đó
hàm lượng ilmenit cũng tỉ lệ thuận với cường độ bức xạ gamma [3].
Người ta đã xác định được trong các đới quặng sa khoáng, hàm lượng thori
biến thiên trong khoảng 0,0009-0,018%. Quặng sa khoáng với giá trị hàm lượng biên của
ilmenit là 10 kg/m3 có hàm lượng thori qTh là 0,0027%, tương ứng với
cường độ gamma Ig là 11mR/h; quặng đạt hàm lượng công nghiệp (³50 kg/m3) có
qTh ³ 0,009%, tương ứng với Ig ³ 35 mR/h [3].
2. Tính dị thường phóng xạ
Sau khi đã mô hình hoá, chúng tôi đã tiến hành tính giá trị cường độ gamma
ở mức mặt đất và ở độ cao bay đối với mô hình thân quặng điển hình của các đới
sa khoáng ven biển miền Trung với các tham số sau: thân quặng kéo dài vô hạn l ® ¥. Chiều rộng d = từ 40 đến 1000 m; bề dày h >1 m.
Cường độ bức xạ gamma mặt đất được tính theo công
thức bức xạ của vỉa thẳng đứng vô hạn dạng:
trong đó: K - hằng số gamma (k = 1,35.103
mR/h. cm2/g);m - hệ số làm yếu tia
g trong đất
đá và quặng (giả thiết mđá = mquặng);
d - bề rộng thân quặng; Q - hàm lượng thori g/g;
r - mật độ g/cm3; F - hàm Kin, giá trị cho sẵn trong bảng.
Cường độ bức xạ gamma ở độ cao bay H của nửa không gian bức xạ vô hạn (thân
quặng có chiều dài, chiều rộng và chiều dày vô hạn) được tính theo công thức
sau:
trong đó: mk - hệ số làm
yếu tia g trong không khí
Đối với thân quặng có chiều rộng hữu hạn d, công thức
(2) có dạng:
trong
đó: j(a) - hệ số hiệu chỉnh đối với sự hữu hạn
của bề rộng thân quặng, có giá trị phụ thuộc vào góc nhìn
của detector, tức là phụ thuộc vào vị trí quan sát, bề rộng thân quặng d và độ
cao bay H.
với a - góc nhìn
từ độ cao bay đối với bề rộng thân quặng.
Đối với nửa không gian bức xạ vô hạn, việc tính chuyển cường độ gamma từ độ
cao bay I¥(H) về mức mặt đất
I¥(0) được thực hiện theo công thức sau:
Khi
thân quặng có chiều rộng d hữu hạn, công thức (5) có dạng:
là hệ số tính chuyển cho trường nửa
không gian bức xạ vô hạn hay còn gọi là hệ số tính chuyển cho trường hợp bình
thường, Pdt là hệ số hiệu chỉnh đối với trường hợp thân quặng có bề
rộng d hữu hạn hay còn gọi là hệ số hiệu chỉnh khi tính chuyển đối với các dị
thường địa phương.
Hình 1 minh hoạ cho các công thức
(3), (4), (5), (6).
Hình 1 cho thấy, khi nguồn bức xạ là nửa không gian vô hạn thì góc nhìn từ
độ cao bay luôn luôn là 2P. Do đó, cường độ bức xạ chỉ giảm theo độ cao bay mà không thay đổi theo vị
trí của điểm quan sát trên tuyến đo. Khi nguồn bức xạ có bề rộng d hữu hạn, góc
nhìn từ độ cao bay tới bề rộng thân quặng là a < 2P. Điểm quan sát càng cách xa thân quặng thì góc nhìn a càng nhỏ. Do đó cường độ gamma ở độ bay cao của nguồn hữu hạn sẽ giảm
nhanh theo độ cao và theo độ lớn khoảng cách đối với nguồn. Khi tính chuyển giá
trị cường độ gamma của nguồn hữu hạn từ độ bay cao xuống mức mặt đất, không
những phải tiến hành hiệu chỉnh độ cao (với hệ số nhân PH) mà còn
phải hiệu chỉnh bề rộng hữu hạn d của nguồn [hệ số nhân Pdt trong
công thức (6)].
Hình 1. Cường độ bức xạ gamma ở các độ bay cao khác nhau trên nửa không gian
bức xạ vô hạn và trên thân quặng có bề rộng d hữu hạn (a) và mặt cắt thẳng đứng
trường bức xạ gamma (b)
Chỉ dẫn:
- Hình 1a: bề rộng
thân quặng d: 1- 100 m; 2- 300 m; 3- d® ¥ (nửa không gian bức xạ vô hạn )
- Hình 1b: đường đứt
nét - IH/ I(0)¥ nửa không gian bức xạ vô hạn; đường liền nét - IH(d)/ I(0)¥ ; thân quặng có d = 100 m, chỉ số
của đường là tỉ số IH/ I(0); a: góc nh́n từ điểm quan sát tới bề rộng thân quặng.
Hình 2 đưa ra ví dụ về kết quả đo gamma hàng không và gamma mặt đất vùng mỏ sa
khoáng titan Tân Thành ven biển Bình Định.
Hình 2a đưa ra giá trị các đường đẳng trị gamma đã được tính chuyển một
cách tự động bằng máy từ độ cao bay về mức mặt đất chưa có hiệu chỉnh đối với bề
rộng hữu hạn (d = 200 - 300 m) của thân quặng; trên hình 2b biểu diễn các đường
đẳng trị gamma do các tác giả bài báo tiến hành tính chuyển đă có hiệu chỉnh đối
với kích thước hữu hạn của nguồn, hoặc còn gọi là đối với tính địa phương của dị
thường phóng xạ.
Từ ví dụ đã nêu có thể thấy rõ, nếu không hiệu chỉnh tính địa phương của dị
thường phóng xạ thì kết quả tính chuyển cường độ gamma từ độ cao bay về mức mặt
đất sẽ có sai số lớn. Cụ thể tại vùng Tân Thành, giá trị cường độ tính chuyển tự
động nhỏ hơn giá trị thực tới 3-4 lần. Kết quả tính chuyển của các tác giả với
việc đưa vào hệ số hiệu chỉnh Pdt cho trường hợp bề rộng thân quặng d = 200- 300
m (Pdt được xác định bằng phương pháp lý thuyết lập trình tính toán, sau đó kiểm
tra bằng thực nghiệm) tương đối phù hợp với thực tế: giá trị cường độ gamma tính
chuyển từ độ cao bay về mức mặt đất (xem hình 2b) tương đương với cường độ gamma
theo đo vẽ gamma mặt đất (các đường đẳng trị g ở hình 2c).
II. DỰ BÁO TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG SA
KHOÁNG VEN BIỂN THEO ĐẶC ĐIỂM DỊ THƯỜNG PHÓNG XẠ
Các kết quả phân tích, tổng hợp, mô hình hoá và tính
toán lý thuyết nêu trên đã chỉ ra khả năng sử dụng tài liệu đo phổ gamma hàng
không không chỉ cho phép tính chuyển cường độ gamma từ độ cao bay về mức mặt đất
sau khi đă hiệu chỉnh tính địa phương của dị thường, mà còn có thể sử dụng các
số liệu đo gamma hàng không trong phân tích định lượng.
Tại vùng Tân Thành có thể dự báo tài nguyên môi
trường theo kết quả đo phổ gamma hàng không (đã hiệu
chỉnh tính địa phương của dị thường phóng xạ) hoặc theo kết quả đo phổ gamma mặt
đất. Đường biên của thân quặng sa khoáng titan được xác
định theo đường đẳng trị gamma Ig = 11 mR/h, còn thân quặng titan công nghiệp (hàm lượng
ilmenit ³ 50 kg/m3) là dải dị thường gamma Ig ³ 35 mR/h.
a
Theo nghị định Chính phủ số 50/1998/NĐ-CP [4] thì
diện tích dị thường phóng xạ Ig >30 mR/h ứng với giá trị liều tương đương bức xạ H > 1
mSv/năm, vượt quá tiêu chuẩn
an toàn bức xạ đối với dân thường. Tại Tân Thành và tại
các vùng khác ven biển có điều kiện tương tự, không được để cho nhân dân làm nhà
sinh sống trên các diện tích dị thường phóng xạ vừa nêu.
KẾT LUẬN
1. Dị thường phóng xạ trên các đới sa khoáng ven biển miền Trung nói riêng
và Bình Định nói chung có các đặc điểm sau: bản chất thori, có dạng kéo dài
(chiều dài đới quặng từ hàng nghìn đến hàng chục nghìn mét có thể coi là kéo dài
vô hạn), nhưng bề rộng d từ vài chục mét đến hàng trăm mét được coi là hữu hạn
khi nhìn từ độ cao bay xuống mức mặt đất, tạo ra các dị thường địa phương trong
phép đo phổ gamma hàng không.
2. Bằng phương pháp tổng hợp tài liệu, mô hình hoá và tính toán lý thuyết
có thể đưa ra phương pháp hiệu chỉnh đối với tính địa phương của dị thường phóng
xạ khi tính chuyển giá trị cường độ gamma từ độ cao bay về mức mặt đất.
3. Có thể dự báo tài nguyên và môi trường các đới quặng sa khoáng ven biển
theo đặc điểm dị thường phóng xạ. Quặng sa khoáng được xác định theo các dị
thường phổ gamma hàng không có bản chất thori, có giá trị hàm lượng thori cao
nhưng hàm lượng kali thấp [3]. Đường biên của thân quặng được xác định theo giá
trị các đường đẳng trị gamma mặt đất hoặc các đường đẳng trị gamma tính chuyển
về mức mặt đất của đo vẽ hàng không sau khi đă có các hiệu chỉnh cần thiết.
Bài báo được hoàn thành dựa trên kết quả nghiên cứu
và sự hỗ trợ kinh phí của đề tài Nghiên cứu cơ bản Nhà nước mã số 730303. Nguồn tư liệu là kết quả nghiên cứu của đề tài và
thu thập từ Lưu trữ Cục Địa chất và Khoáng sản Việt
VĂN LIỆU
1. Lê Khánh Phồn, 1997. Nghiên cứu ô nhiễm môi trường trong khai thác và chế
biến các mỏ quặng có chứa chất phóng xạ.
TC Địa chất, A /240 : 28-32.
2. Lê Khánh
Phồn, Võ Ngọc Anh, 1999. Bàn về bản chất và nội dung hệ phương pháp xử lý tài
liệu phóng xạ trong nghiên cứu địa chất và môi trường. TC Địa chất A/251 : 30- 34.
3. Lê Khánh
Phồn, Võ Ngọc Anh, 2003. Nghiên cứu bản chất, đặc điểm dị thường phóng xạ các
đới sa khoáng ven biển miền Trung. TC KHKT
Mỏ - Địa chất, 3 : 3-8.
4. Nghị định Chính phủ “Quy định chi tiết việc thi hành pháp lệnh an toàn và
kiểm soát bức xạ”, số 50/1998 NĐ-CP.