TIN ĐỊA CHẤT
NGUYỄN XUÂN BAO
Hội Địa chất Tp.
Hồ Chí Minh
1. Về
khảo sát địa chất công tŕnh trước
thiết kế và thi công
Công
ty Tư vấn Xây dựng Điện 1 đă thực hiện
các dạng khảo sát bao gồm đo vẽ lập bản
đồ địa chất - địa chất công tŕnh
toàn bộ vùng hồ tỉ lệ 1:50.000, vùng tuyến tỉ
lệ 1:10.000, các hạng mục công tŕnh chính tỉ lệ
1:2.000. Vùng tuyến đập Sông Tranh 2 đă khoan giếng
sâu từ 20 mét đến 100 mét, với tổng số 7580
mét khoan, lấy 377 mẫu đá thí nghiệm chỉ tiêu
cơ lư, xác định 350 mẫu lát mỏng thạch học.
Năm
2003, Viện Vật lư Địa cầu đă lập
sơ đồ kiến tạo và địa động lực
khu vực Sông Tranh 2 và lân cận.
Trước
khi thi công đă bóc sạch móng tuyến đập, trám bít tất
cả các vết nứt nẻ và giếng khoan cẩn thận.
2. Về
địa chất vùng đập
Đập
được đặt hoàn toàn trên trường đá
gneis của phức hệ biến chất Khâm Đức -
Núi Vú bị biến dạng và biến chất khu vực
vào Ordovic (khoảng 450 Tr.n). Ở vùng tuyến đập
gneis có phương á vĩ tuyến theo phương của
đoạn sông này và cắm khá dốc về N-ĐN (1600
< 750). Đá gneis hạt nhỏ và đều, phân
phiến (foliation) dạng dải đặc trưng, ít nhiều
bị nứt nẻ do chịu tác động của các pha
hoạt động kiến tạo về sau. Khu vực tuyến
đập có 2 hệ thống đứt găy nhỏ bậc
4 cộng ứng có biên độ dịch chuyển theo
phương (trượt bằng) không đáng kể, trong
đó hệ đứt găy phương á kinh tuyến
trượt trái và hệ phương á vĩ tuyến
trượt phải. Có một đứt găy nhỏ
phương á vĩ tuyến này đi ngay vào dưới
chân đập chính.
Quang
cảnh địa chất vùng đập Sông Tranh 2 khá
tương tự như ở vùng đập Ya Ly ở Gia
Lai.
3. Đặc
điểm địa chất vùng hồ thủy
điện Sông Tranh 2
Ở
vùng hồ phân bố nhiều loại đá
biến chất bao gồm các gneis, metagabbro, metadiorit, metagranodiorit,
metaplagiogranit của phức hệ xáo trộn kiến tạo
Khâm Đức - Núi Vú. Chúng bị biến chất nhiệt
độ cao dẫn đến nóng chảy tạo ra granit
migmatit phức hệ Chu Lai được xếp vào tuổi
Ordovic. Có một khối granit phức hệ Chu Lai khá rộng
nằm trong vùng hồ. Các đá nói trên đều có
phương chung á vĩ tuyến, bị phân phiến khá dốc,
có nhiều hệ thống khe nứt.
Đứt
găy cắt trượt Trà Bông - Trà Mi đi ngang qua vùng hồ.
Theo TS Nguyễn Văn Vượng th́ tuổi hoạt động
của đứt găy cắt trượt này là Trias giữa
(căn cứ vào hai mẫu 223 và 243 triệu năm trên các
khoáng vật sinh ra do hoạt động đứt găy).
4. Về
vấn đề đứt găy đang hoạt động
Không
có bằng chứng vững chắc để khẳng
định có đứt găy đang hoạt động ở
vùng này. Các nhà khoa học đă báo cáo về đứt găy và
động đất vùng Trà My cho rằng có 2 pha hoạt
động đứt găy: Pha thứ nhất là Kainozoi sớm
và pha thứ hai là Neogen - Đệ tứ. Nếu cho rằng
pha thứ 2 tạo kẽ nứt cho bazan trẻ phun ra th́ hoạt
động của pha đứt găy này đă có trước
khi xuất hiện bazan trẻ. Thực tế các bazan Pliocen
muộn - Pleistocen giữa ở Trung Trung Bộ không hề
bị phá hủy đứt găy và biến dạng. Trên đất
liền, tất cả bazan đều đă tắt từ
Pleistocen muộn. Trên các mặt cắt địa chấn
vùng thềm lục địa đều thể hiện có
các trầm tích Pliocen - Đệ tứ hầu như không bị
đứt găy ảnh hưởng đến.
5. Về
động đất cực đại có khả năng
xảy ra
Viện
Vật lư Địa cầu cho rằng động đất
cực đại ở đây là Mmax= 5,5 trong khi
đó PGS.TS Cao Đ́nh Triều cho rằng Mmax= 5,5-6.
Thiết
nghĩ, các nhà nghiên cứu động đất nói trên nên
cùng nhau hội chẩn để có kết luận thống
nhất về Mmax.
6. Về
động đất kích thích ở thủy điện
Sông Tranh 2
TS Trịnh
Quốc Nghĩa (từ Na Uy) đưa ra nhận định
khá thuyết phục rằng có 2 nhóm động đất
đă xảy ra: Một là nhóm động đất kích
thích xảy ra từ 23/11/2011 đến 26/4/2012 xuất hiện
sau 5 tháng kể từ khi bắt đầu tích nước
hồ, và Hai là nhóm động đất kích thích xảy ra
từ 29/8/2012 đến 27/9/2012 sau 5 tháng kể từ khi bắt
đầu tháo bớt nước hồ.
Việc
thay đổi tải trọng và nhất là áp suất hay
chiều cao hồ nước cùng với độ thẩm
thấu của nền móng hồ chứa và sự có mặt
của các đứt găy trong vùng là những tác nhân quan trọng
của động đất kích thích. Hồ Sông Tranh 2 tuy
không lớn nhưng địa chất móng hồ phức tạp,
nói chung có độ thẩm thấu đáng kể do có nhiều
đứt găy nhỏ giữa các khối cấu tạo
đá khác nhau trong đới xáo trộn kiến tạo, lại
có nhiều mặt phiến và thớ chẻ trong đá biến
chất cắm dốc, bị nứt nẻ nhiều. Sau
khi tích nước ứng suất nền móng thay đổi
do có thêm tải trọng hồ nước, đồng thời
nước nhanh chóng thẩm thấu xuống sâu đến
các chổ hở và dập nát của các đứt găy, kể
cả đứt găy lớn Trà Bồng - Trà My. Áp lực lỗ
hổng nước ngầm tăng lên làm giảm sức bền
hiệu quả của đá móng hồ, khiến xảy ra
động đất. Khi thể tích đột ngột giảm
và chiều cao hồ nước th́ có hiệu ứng
ngược lại cũng dẫn đến động
đất.
Việc
dự báo động đất kích thích do hồ chứa
là rất khó. Tuy nhiên, theo TS Charence R. Allen (1979) chỉ có một
số rất ít hồ trong số hơn 11.000 hồ lớn
trên thế giới có động đất kích thích gây thảm
họa lớn, với M > 5,7. Đó là 4 hồ: Hsin feng kiang ở Trung Quốc
(1962) với M 6,1; Kariba ở
Rhodesia - Zambia (1963) với M 5,8; Kremasta
ở Hi Lạp (1966) với M 6,3; và Konya ở Ấn Độ (1967) với M 6,5. Hầu
hết các hồ khác tuy có gây động đất
nhưng thường rất yếu với M < 5. V́ vậy,
thật khó cho rằng hồ thủy điện Sông Tranh 2
với quy mô không lớn lại có khả năng lọt vào
danh sách hiếm hoi các hồ gây thảm họa này.
Đáng
tiếc là lẽ ra khi thiết kế cần phải dự
liệu khả năng có động đất kích thích, với
điều kiện nền móng hồ phức tạp ở
đây và giải thích cho mọi người hiểu để
không quá bất ngờ và hoảng loạn khi xảy ra động
đất kích thích chưa đến mức gây thảm họa.
Và cũng phải cần có kịch bản ứng phó với
t́nh huống xấu không mong đợi có thể xảy ra
dù với xác suất rất thấp.
7. Kết
luận
- Địa
chất vùng hồ phức tạp nhưng đáng tiếc chưa
được nhiên cứu kỹ để tiên liệu có
động đất kích thích và chuẩn bị trước
tâm trạng cũng như kiến thức cho mọi người
liên quan để chủ động ứng phó.
- Đề
nghị tổ chức thẩm định việc đánh
giá về đặc điểm kiến tạo của vùng
trong mối liên quan đến động đất cả
tự nhiên và kích thích.
- Đề
nghị các nhà khoa học cần cẩn trọng trong nhận
xét và phát biểu về tính ổn định địa chất
công tŕnh vùng đập và hồ chứa sao cho đúng thực
tế, tránh suy diễn vô căn cứ, phóng đại vấn
đề, dẫn tới hiểu lầm và gây hoang mang trong
cộng đồng.