Ở MIỀN TÂY BẮC BỘ
LÊ
VĂN DŨNG, CAO ĐÌNH TRIỀU
Viện Vật lý Địa cầu,
Viện KH&CN Việt Nam, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu
Giấy, Hà Nội
Tóm tắt: Bài báo này đề cập tới
một mô hình cấu trúc và biểu hiện hoạt
động của thạch quyển ở miền Tây
Bắc Bộ. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
1. Vận tốc trung bình sóng P
của thạch quyển ở Tây Bắc Bộ biến
động trong giới hạn sau: lớp vỏ trầm
tích là 2,1-4,96 km/s; vỏ kết tinh là 5,92-7,60 km/s và phần
cứng trên cùng của đỉnh manti là 7,85-8,00 km/s.
2. Vỏ trầm tích ở Tây
Bắc Bộ biến đổi trong giới hạn
từ 0 tới 7-9 km: trung tâm võng Hà Nội (7-9 km); cấu
trúc Sông Đà và Ninh Bình (4-6 km); khối nâng Sông Hồng, Sông
Mã và Mường Tè (nhỏ hơn 2 km). Vỏ
kết tinh có bề dày từ 18 đến 34 km: võng Hà
Nội, nhỏ hơn 24 km; võng Sông Đà - Tú Lệ và
đới nâng Sông Mã (26-28 km). Bề dày vỏ Trái
đất tại các võng Sông Đà - Tú Lệ, Ninh Bình, Sông
Hồng, khối nâng Sông Mã và vùng ven biển Thanh Hóa -
Nghệ An nhỏ hơn 26 km. Bề dày của thạch
quyển biến đổi trong giới hạn từ 84
tới 100 km, trong đó tại khối nâng Sông Hồng, võng
Sông Hồng và dọc theo vùng ven biển Thanh Hóa - Nghệ An
nhỏ hơn 94 km.
3. Thạch quyển ở Tây
Bắc Bộ có biểu hiện hoạt động nâng
phân dị trong tân kiến tạo, nơi chịu tác
động dịch chuyển thẳng đứng lớn
hơn cả là: đới Tú Lệ (5,0-8,5
mm/năm); đới Phan Si Pan (5,0-8,0 mm/năm) và
đới Pu Si Lung (5,0-8,0 mm/năm). Độ
sâu trung bình của tầng hoạt động động
đất là khoảng 14 km.
4. Sáu
đới phát sinh động đất chính
được xác định gồm: Mường Tè
với động đất lớn nhất đã xảy
ra có M = 5,3; Lai Châu - Điện Biên (M = 5,6); Sông Mã (M = 6,8);
Sơn La - Sông Đà (M = 6,7); Sông Hồng (M = 5,3) và Sông
Cả (M = 5,2).