ĐẶC ĐIỂM ĐỊA ĐỘNG LỰC HIỆN ĐẠI VÙNG VEN BIỂN VIỆT NAM

CAO Đ̀NH TRIỀU1, LÊ DUY BÁCH1, NGÔ GIA THẮNG1, BÙI ANH NAM1,

TRẦN NGHI2, CHU VĂN NGỢI2, NGUYỄN VĂN VƯỢNG2,

PHẠM HUY LONG3, ĐỖ VĂN LĨNH3, NGUYỄN TÀI THINH3

1Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam;
2Đại học Khoa học Tự  nhiên Hà Nội;
3Tổng hội Địa chất

Tóm tắt: Trong khuôn khổ bài báo này, các tác giả bàn luận về nội dung thành lập bản đồ địa động lực hiện đại và ví dụ thành lập sơ đồ địa động lực ven biển Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy:

1/ Khu vực ven biển Việt Nam có vỏ Trái đất nằm trong trạng thái cân bằng và trạng thái nén ép: B-ĐB (5-100), chuyển dần sang phương kinh tuyến từ Móng Cái đến Nghệ-Tĩnh;  B-TB chuyển dần sang á vĩ tuyến từ Quảng B́nh tới Đà Nẵng; á vĩ tuyến (T-TB) chuyển sang vĩ tuyến từ Quảng Ngăi đến Phú Yên;  B-TB (20-300) xuống N-ĐN tại vùng ven biển Nam Trung Bộ, Nam Bộ và Kiên Giang - Cà Mau.

2/ Động đất mạnh nhất có thể xảy ra dọc dải ven biển Việt Nam có chấn cấp tối đa nằm trong giới hạn 6,5 đến 7,5 độ Richter, trong đó: Mmax = 7,0-7,5 độ Richter tại hầu hết các vùng nguồn trong vùng nghiên cứu. Các vùng nguồn Ba Tơ - Củng Sơn, Biên Ḥa - Tuy Ḥa, Đông Côn Sơn, Phú Quư - Cảnh Dương, Ḥn Chuối và Cà Mau có khả năng xảy ra động đất với giá trị M cực đại nằm trong giới hạn tối đa 6,5-7,0 độ Richter; vùng nguồn Nha Trang có nguy cơ động đất mạnh nhất không vượt quá 6,5 độ Richter.

3/ Vào thời kỳ hiện đại, các hoạt động nội động lực vẫn c̣n tiếp tục diễn ra với quy mô khác nhau như biểu hiện của ḍng nhiệt, của hoạt động núi lửa, hoạt động động đất và những chuyển động kiến tạo. Chúng có xu hướng tập trung vào các đới ranh giới kiến tạo - địa động lực cơ bản của khu vực.


                        (Xem toàn văn: Liên hệ với Tạp chí Địa chất - Tổng cục Địa chất và Khoáng sản)