TIN ĐỊA
CHẤT
TIẾN TỚI SỰ BỀN VỮNG
NĂNG LƯỢNG
Phỏng vấn
trực tiếp GS.TS Widjajono Partowidagdo,
Ủy viên Hội đồng Năng lượng Quốc
gia (DEN)
Tháng 12/2011, GS.TS Widjajono Partowidagdo, Thứ
trưởng Bộ Năng lượng và Khoáng sản
Indonesia đă cùng với Bộ trưởng Bộ Tài nguyên
và Môi trường Việt Nam Nguyễn Minh Quang làm Đồng
Chủ tịch Hội nghị Bộ trưởng các
nước ASEAN về Khoáng sản lần thứ 3 (AMMin 3)
tại Hà Nội. Chỉ qua lần tiếp xúc ngắn ngủi
trong thời gian Hội nghị, nhiều người
đă thấy ở ông toát lên sự gần gũi, giản
dị, khiêm nhường, nhưng cũng không che dấu
đi sự uyên bác. Bất ngờ và đau buồn khi nghe
tin ông đột ngột tử nạn trong chuyến leo núi
ngày 21/4/2012. T́m hiểu về ông qua các phương tiện
thông tin đại chúng ở Indonesia, phát hiện ra rằng
ông là một nhân vật có uy tín và ảnh hưởng lớn
trong xă hội và nền kinh tế của Indonesia. T́nh cờ
đọc được nội dung của một cuộc
phỏng vấn dưới đây thấy tâm đắc và
giá trị nên chúng tôi giới thiệu để bạn
đọc tham khảo.
Cuộc phỏng vấn đặc biệt
với GS W. Partowidagdo được tiến hành vào ngày
12/5/2009 sau khi ông chia sẻ quan điểm của ông tại
chương tŕnh hàng tháng của TDG (Technical Discussion Group) của
Phân hội Java, Hiệp hội các nhà Công nghệ dầu khí
(SPE Java Section). Cuộc nói chuyện của ông đề cập
đến tầm nh́n năng lượng hiện nay, trong
đó thế giới ngày nay tiêu thụ 230 MMBOEPD, trong đó
dầu khí cung ứng 60%, than cung ứng 20% và hạt nhân,
hydro, gió và mặt trời cung ứng 20% c̣n lại.
H́nh 1. Đồng Chủ tịch Hội nghị Bộ
trưởng các nước ASEAN về Khoáng sản lần
thứ 3 tại Hà Nội (AMMin 3): Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường Việt Nam Nguyễn Minh Quang (ở
giữa, Thứ trưởng Bộ Năng lượng và
Khoáng sản Indonesia Widjajono Partowidagdo (bên phải) và Tổng
cục trưởng Tổng cục Địa chất và
Khoáng sản Nguyễn Văn Thuấn (bên trái).
Đến năm 2020, nhu cầu năng
lượng toàn thế giới có thể tăng đến
285 MMBOEPD với 80% của sự tăng trưởng thuộc
các nước đang phát triển. Đây là một nhiệm
vụ khó khăn cho các nhà chức trách, các công ty và các nhà
chuyên môn về dầu khí.
Cuộc nói chuyện của ông đề
cập đến nội dung bền vững kinh tế công
nghệ của Nghị định Tổng thống
Indonesia tháng 5/2006 đặt mục tiêu đóng góp 17%
năng lượng tái tạo vào tổng thể năng
lượng Indonesia tới năm 2025, trong khi đóng góp của
khí tự nhiên được ấn định tăng từ
27% đến 31% và than từ 14% đến 33%. Nghị
định này dường như bỏ qua những giới
hạn về sự phổ biến và khan hiếm năng
lượng không tái tạo của chúng ta.
H́nh 2. Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
Việt Nam Nguyễn Linh Ngọc hội đàm với Thứ
trưởng Bộ Năng lượng và Khoáng sản
Indonesia Widjajono Partowidagdo.
Trong cuộc phỏng vấn giản dị
này có mặt các lănh đạo của Ban Chấp hành Phân hội
SPE Java gồm ông Deden Supriytman (Chủ tịch), Prijo Hutomo
(Lănh đạo TDG), Yani Siskartika (Ủy viên
BCH), Dian N. Cahyono (Ủy viên BCH), Megawaty (quan chức của
Hiệp hội). Deden Supriyatman (DS) bắt đầu cuộc
phỏng vấn như sau:
DS: Thưa GS Widjajono, xin cám ơn v́ đă
dành thời gian, SPE đánh giá cao bài tŕnh bày của ông về
Năng lượng bền vững trong Chương tŕnh
TDG của chúng tôi. Đó là một chương tŕnh
được mến mộ của SPE Java. Đầu
tiên, ông có thể cho chúng tôi biết nguyên nhân v́ sao ông theo
đuổi ngành học công nghệ dầu khí tại Đại
học Công nghệ Bandung (ITB)?
GS W.
Partowidagdo (WP): Lúc đầu,
tôi dự định xin học công nghệ hóa học và
dược học, bởi v́ tôi yêu thích hóa học. Tuy nhiên,
sau khi đọc cuốn sách Hướng dẫn sinh viên, do
Ban Sinh viên của ITB xuất bản, tôi đă lựa chọn
công nghệ dầu khí và công nghệ hóa học....
DS: Nói chung, những mấu chốt nào theo
ông là cần thiết để cải thiện phúc lợi
ở đất nước chúng ta?
WP: Theo sự hiểu biết của tôi, có
bốn vấn đề mấu chốt có thể giúp nâng
cao phúc lợi của đất nước ta. Đầu
tiên là các quan chức chính phủ trong sạch và chuyên nghiệp.
Thứ hai là các nhà khoa học hàn lâm nói lên sự thật
trên cơ sở hiểu biết của họ. Thứ ba là
những người giàu có giúp đỡ các công dân nghèo khó
nước ḿnh. Thứ tư là người dân nói chung cần
phải kiên nhẫn, làm việc và học tập chăm chỉ
và cố gắng trở nên độc lập. Các vấn
đề này phải được tích hợp với sự
điều phối hợp lư, đầy năng lượng
và hợp tác. Hơn nữa, một đất nước
mạnh là một đất nước biết rút ra các
bài học từ những sai lầm của lănh đạo
và nhân dân nước ḿnh cũng như lănh đạo vào
nhân dân các nước khác. Chúng ta đang học tập
để trở nên tốt hơn. Hiện tại, nếu
chúng ta biết thay đổi thói quen và nhớ về những
sai lầm trong quá khứ, chúng ta sẽ phát triển bền
vững.
DS: Ông có thể chia sẻ ư kiến của
ḿnh về vai tṛ của các hội nghề nghiệp?
WP: Vai tṛ quan trọng nhất của các hội
nghề nghiệp là phục vụ các đối tượng
hữu quan chính, các thành viên của ḿnh trên phương diện
kỹ thuật và phi kỹ thuật, phục vụ các nhà
chức trách trong việc cải thiện nền công nghiệp
bằng cách đề xuất các giải pháp thực tiễn
nhất, chẳng hạn như là giảm thiểu sự
quan liêu.
DS: Ông có thể đưa ra một ví dụ
đơn giản về việc triển khai sự bền
vững năng lượng?
WP: Tôi sử dụng xe buưt và hệ thống
giao thông công cộng nhiều hơn là sử dụng xe
hơi riêng. Một mặt nó tiết kiệm năng lượng
để dành cho giao thông công cộng. Tôi tin rằng nếu
mọi người đều nhận thức được
vấn đề này th́ đất nước ta sẽ tiết
kiệm được rất nhiều năng lượng.
Các xe cá nhân tiêu thụ rất nhiều năng lượng
được trợ giá. Mặt khác, cần luôn luôn khuyến
khích sử dụng các năng lượng thay thế và tái
sinh, chẳng hạn như địa nhiệt và khí methan từ
các mỏ than (CBM). Tăng cường nguồn thu của
chính phủ lên than (bằng cách tăng lệ phí cạn kiệt
tài nguyên) để trang trải cho chi phí chăm sóc sức
khỏe ngày càng tăng, liên quan đến khai thác than và ô
nhiễm dưỡng khí. Cái giá của mưa axit và thảm
họa biến đổi khí hậu ở Sumatra và Java có thể
khuyến khích đầu tư vào các nguồn năng lượng
bền vững, tái sinh và sạch như là địa nhiệt,
nhiên liệu sinh học, microhydro, gió và mặt trời.
DS: Thế giới đang trải qua cuộc
khủng hoảng tài chính mà nó cũng ảnh hưởng
đến đất nước ta. Ông là một nhà kinh tế
dầu khí, mà các nhà kinh tế lỗi lạc khác thường
liên hệ với Adam Smith. Ông b́nh luận như thế nào
về lư thuyết của ông ấy về nền kinh tế
thị trường?
WP: Lư thuyết của Adam Smith là đúng, cho
người ta thấy phải chú trọng cân đối cả
trách nhiệm bản thân (self-restraint) với quyền lợi
bản thân (self-interest). Hiện nay, rất nhiều nước
chỉ quan tâm đến tư lợi mà không quan tâm đến
trách nhiệm của ḿnh, dẫn đến sự mất
cân bằng và các cuộc khủng hoảng kinh tế. Sự
quan tâm quyền lợi bản thân có nghĩa là ư muốn
đạt được kết quả tối đa cho
ḿnh, c̣n để đạt kết quả tối ưu
chúng ta cần phải tính đến trách nhiệm. Trách nhiệm
là sự chia sẻ cái chúng ta đạt được với
người khác. Nếu chúng ta muốn Chúa yêu thương
chúng ta, chúng ta phải yêu thương những thứ mà
Chúa tạo ra. Kinh doanh bền vững không phải là tối
đa hóa lợi nhuận, mà là tối đa hóa giá trị
cho tất cả các bên hữu quan: cá nhân, xă hội và môi
trường.
DS: Chúng ta có thể làm ǵ để cải
thiện đời sống khoa học và nền giáo dục
của đất nước.
WP: Hăy thu thập thêm nhiều nguồn kinh
phí để hỗ trợ hợp lư cho nền giáo dục
của nhân dân chúng ta. Nền Phục hưng Meiji ở Nhật
Bản là sự phục hưng về giáo dục. Họ
đă thay thế hệ thống giáo dục “để nhớ”
của Nhật Bản bằng hệ thống giáo dục
“để hiểu” của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau khi xă hội
Nhật Bản chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của lối sống Hoa Kỳ như đă thấy trong
“Người Samurai cuối cùng”, người Samurai đă phản
kháng. Sau khi những người Samurai bị giết v́ quân
đội Kaisar được hậu thuẫn bởi vũ
khí hiện đại Hoa Kỳ, người Kaisar đă hối
tiếc và nói: “Chúng ta theo đuổi hiện đại
hóa, nhưng chúng ta không được quên chúng ta là ai và
đến từ đâu”. Nguời Nhật đă chấp nhận
đời sống khoa học và hàn lâm phương Tây đồng
thời bảo tồn các truyền thống và văn hóa của
ḿnh. Nước Nhật Bản đă tiến bộ trong
khi vẫn duy tŕ truyền thống của riêng ḿnh. Chúng ta
có thể làm tương tự như vậy ở
DS: Nói về phí hạn chế cạn kiệt
tài nguyên từ dầu khí, chúng ta có thể phân bổ nguồn
tài chính này cho những đâu?
WP: Chúng ta có thể phân bổ các nguồn
này cho: 1/ Thu hút các nhà đầu tư bằng việc cung cấp
thông tin tốt hơn về thăm ḍ dầu khí, địa
nhiệt và khí methan trong mỏ than; 2/ Phát triển năng lực
quốc gia (các công ty, giáo dục và nghiên cứu) trong cả
năng lượng tái tạo và không tái tạo; 3/ Phát triển
hạ tầng để hỗ trợ phát triển năng
lượng; 4/ Trợ giá cho giao thông vận tải công cộng;
5/ Giáo dục người dân sử dụng năng lượng
hiệu quả. Chúng ta biết rằng người dân nên sử
dụng giao thông công cộng để tối thiểu hóa
tiêu thụ năng lượng và ô nhiễm.
DS: SPE có thể làm ǵ để hỗ trợ
công việc của Hội đồng Năng lượng
Quốc gia?
WP: Đóng góp cho Hội đồng Năng
lượng Quốc gia hoặc Chính phủ các nghiên cứu
cụ thể, các bài học kinh nghiệm với các đề
xuất thực tiễn nhất. SPE cũng có thể hỗ
trợ các nhà nghiên cứu để đạt được
các kiến thức thực tiễn cần thiết để
đóng góp tốt hơn cho phúc lợi công cộng và sự
bền vững năng lượng.
DS: Chúng ta tăng sản lượng dầu
mỏ ở nước ta như thế nào?
WP: 1/ Chính phủ phải tăng cường
chất lượng của môi trường đầu
tư bằng cách tối thiểu hóa sự tham nhũng,
tăng cường phối hợp giữa hành pháp và lập
pháp, giữa chính quyền trung ương và địa
phương, giữa các bộ ngành và tăng cường
chất lượng các qui định và thủ tục hành
chính. 2/ BPMIGAS phải đơn giản hóa thủ tục
hành chính. Sẽ tốt hơn bằng cách tuyển dụng
các nhân viên cũ của các công ty KKKS, những người
có kinh nghiệm trong kinh doanh dầu mỏ quốc tế và
bằng cách có được các đại diện trong các
công ty KKKS. Chất lượng giao tiếp giữa Ban lănh
đạo MIGAS, BPMIGAS, KKKS cần được cải
thiện. Cơ quan P3M (giám sát tăng sản lượng) cần
tiếp cận Chính phủ và KKKS để xác định
các vấn đề và cùng giải quyết chúng.
Các chữ
viết tắt:
- DEN - Dewan Energi Nasional - Hội đồng
Năng lượng Quốc gia
- SPE - Society of Petroleum Engineers - Hiệp hội
Các nhà công nghệ dầu khí
- MIGAS – Minyak Dan Gas Bumi - Cơ quan quản
lư các hoạt động dầu khí
- BPMIGAS - Badan Pelaksana Kegiatan UsahaHulu Minyak
Dan Gas Bumi - Cơ quan điều hành thăm ḍ và khai thác dầu
khí
- KKKS - Kontraktor Kontrak Kerja Sama - Các nhà thầu
trong hợp đồng hợp tác
- P3M - Pusat Pengkajian dan Pengembangan Media - Giám
sát tăng sản lượng
- MMBOEPD - Million of Barels of Oil Equivalent Per Day - Triệu thùng dầu tương đương trên ngày.
TRẦN HỒNG HẢI
Sưu tầm và dịch từ: http://widjajonopartowidagdo.blogspot.com/2011/08/toward-energy-sustainability.html
Người biên tập: GS.TS
Trần Văn Trị.