MÔ HÌNH ĐỊA CHẤT CẢI TIẾN CHO TẦNG MÓNG NỨT NẺ TRONG VÙNG MỎ HẢI SƯ ĐEN, BỂ CỬU LONG

NGUYỄN QUỐC QUÂN

Tổng công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí Petro Vietnam, Láng Hạ, Hà Nội

Tóm tắt: Việc xây dựng mô hình địa chất cho tầng chứa móng granit nứt nẻ trong bể Cửu Long đóng một vai trò rất quan trọng trong dự báo khai thác và đầu tư xây dựng thiết bị phát triển mỏ. Trong bài báo này, tác giả sử dụng phương pháp xây dựng mô hình địa chất Halo Cải tiến dựa vào các hệ thống đứt gãy và chiều sâu của đối tượng so với bề mặt móng đã được thiết lập, trên cơ sở kế thừa phương pháp Halo truyền thống, nhưng được cải tiến nhằm khắc phục các hạn chế còn tồn tại trong các mô hình địa chất trước đây. Mô hình mới được xây dựng bao gồm 2 loại khe nứt: vĩ mô (macro) và vi mô (micro) bị chi phối bởi kết quả phân tích và phân loại đứt gãy và trường đá móng.

Kết quả phân tích ở vùng nghiên cứu đã giúp phân ra 3 hệ thống đứt gãy và xác định được ranh giới các khối thạch học có các khả năng chứa khác nhau. Hệ thống đứt gãy phương vĩ tuyến, á vĩ tuyến và ranh giới thạch học giữa các khối địa chất là các hệ thống có mức độ chứa tốt nhất, bao gồm 33 đứt gãy và 6 đường ranh giới giữa các khối thạch học. Các hệ thống đứt gãy phương ĐB-TN (40-50o, 60-70o), TB-ĐN (300-340o), có mức độ chứa đứng thứ hai, bao gồm 78 đứt gãy. Hệ thống phương 20-30o bao gồm 8 đứt gãy có mức độ chứa thấp nhất hoặc hầu như không có khả năng chứa.

Việc phân tích và phân loại các trường đá trong khối móng Hải Sư Đen được dựa trên tài liệu địa chấn kết hợp với tài liệu giếng khoan cho ta 3 loại trường đá có các mức độ chứa khác nhau: trường đá 1 có mức độ chứa tốt nhất; trường đá 2 có mức độ chứa trung bình và trường đá 3 có mức độ chứa thấp nhất

                   

                    (Xem toàn văn: Liên hệ với Tạp chí Địa chất - Tổng cục Địa chất và Khoáng sản)