ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP VIỄN THÁM TRONG NGHIÊN CỨU ĐỊA MẠO BIỂN Ở
KHU VỰC TÂY
NGUYỄN
BIỂU1, NGUYỄN QUỐC HƯNG2, NGÔ THỊ KIM CHI2,
VŨ ANH THƯ2, PHÙNG NGỌC MẠNH2, BÙI THU HIỀN2,
LÊ ĐÌNH NAM3
1 Tổng hội Địa chất Việt Nam, 6 Phạm Ngũ
Lão, Hà Nội;
2 Trường Đại học Mỏ - Địa
chất,Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội;
3 Viện Địa chất - Địa vật lý Biển,Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội
Tóm tắt: áp dụng
phương pháp phân tích ảnh viễn thám có độ phân giải khác nhau kết hợp với bản đồ
đẳng sâu và sự phân bố trầm tích cho phép nghiên cứu địa mạo đáy biển ở khu vực
tây nam biển Đông từ mức độ khu vực đến chi tiết.
- Sử dụng ảnh viễn thám độ phân giải thấp kết hợp với
tài liệu đo sâu trong nghiên cứu địa mạo đáy biển cho phép phân chia địa hình
đáy biển thành 4 vùng địa mạo như thềm, sườn, chân lục địa và đáy biển sâu.
- Sử dụng ảnh viễn thám độ phân giải trung bình
(100 đến 200 m) trong nghiên cứu địa mạo đáy biển có thể xác định sự phân bố các
kiểu địa hình và kết quả này góp phần hiệu chỉnh các bản đồ địa hình tỷ lệ 1:
200.000 và 1: 500.000.
- Sử dụng ảnh viễn thám có độ phân giải từ 2
đến 5 m trong nghiên cứu địa mạo đáy biển ở mức độ chi tiết giúp chỉ rõ hình
thái thành phần địa hình và dự báo các tiềm ẩn tai biến địa chất liên quan.
I. MỞ
ĐẦU
Trước đây, phương pháp
phân tích ảnh viễn thám trong nghiên cứu đáy biển đã được áp dụng ở nhiều nước,
nhưng cho tới nay phương pháp này vẫn chưa được sử dụng trong các công trình
nghiên cứu địa hình, địa mạo và địa chất biển Việt Nam do chưa có ảnh vệ tinh
đáy biển. Trong công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã sử dụng các ảnh
viễn thám có độ phân giải khác nhau để nghiên cứu đặc điểm địa mạo đáy biển ở
khu vực tây nam biển Đông và xác định khả năng ứng dụng của phương pháp này ở
Việt Nam.
Vùng nghiên cứu là phần
đáy biển Đông từ Nam Trung Bộ đến Đông Nam Bộ, được khống chế trong ô tọa độ địa
lý từ 9,57o đến 13o vĩ độ Bắc và từ 105,36o đến
113o kinh độ Đông (Hình 1).
Khi chưa áp dụng ảnh
viễn thám trong nghiên cứu, thềm lục địa ở khu vực này được phân chia với ranh
giới thềm - sườn ở độ sâu -200 m [10], -200 đến -300 m [1-9, 11, 12]. Các bản đồ
địa hình đo trong vùng nghiên cứu được vẽ trên cơ sở nội suy các điểm đo sâu rời
rạc và kết hợp các tuyến đo sâu hồi âm. Vì vậy, hình thái địa hình có chỗ sai
khác với thực tế và nhiều hình thái địa hình chi tiết vẫn chưa được chỉ ra. Việc
áp dụng phương pháp viễn thám kết hợp với kết quả của những phương pháp khác ở
những mức độ khu vực, trung bình, chi tiết phần nào giải quyết được những nhược
điểm này.
II. NGHIÊN CỨU ĐỊA MẠO
KHU VỰC
Ảnh viễn thám mầu
image@2005. EarthSat và số liệu đo
sâu đáy biển là tài liệu được sử dụng trong nghiên cứu địa mạo khu vực (Hình 1).
Hình1. Image@2005.EarthSat và vị trí đo sâu vùng nghiên cứu
Ảnh chụp vào mùa khô
năm 2005, dạng lập thể bao phủ toàn vùng nghiên cứu. Tỷ lệ phẳng của ảnh tương
ứng 1: 500.000 và có tọa độ được cung cấp bởi Google. Số liệu đo sâu được lấy từ
chương trình Cmap 93 của CHLB Đức với mật độ điểm tương ứng với tỷ lệ 1:
300.000.
Hình 2. Sơ đồ phân chia vị trí các khu vực địa hình vùng nghiên cứu theo ảnh và
độ sâu
Việc thành lập đường
đồng mức độ sâu địa hình đáy biển được thực hiện nhờ phần mềm Vertical dùng
thuật toán Kriging trên số liệu đo sâu của Cmap 93. Kết quả vẽ đường đồng mức đẳng sâu nội
suy theo thuật toán Kriging được thể hiện trên hình (Hình 2).
Việc phân chia các đơn
vị địa hình trong vùng nghiên cứu tiến hành dựa vào các cơ sở sau:
Về địa hình: ảnh được chọn là image@2005.EarthSat
chụp khu vực nghiên cứu vào buổi chiều. Điều đó giúp dễ dàng nhận
thấy rõ vị trí bóng râm của các bậc địa hình và tính chất phân dị của địa hình.
Căn cứ vào các yếu tố này kết hợp với tài liệu đo sâu của Cmap 93 và sự thay đổi
độ dốc địa hình một cách tương đối có thể phân chia và gọi tên tương ứng là vùng
thềm lục địa, vùng sườn lục địa, vùng chân lục địa và vùng đáy biển sâu. Như
vậy, từ ảnh viễn thám và tài liệu đo sâu có thể nhận ra được 4 vùng địa hình.
Vùng thềm lục địa với
đặc điểm địa hình trên ảnh không thể hiện sự phân dị và độ dốc địa hình thay đổi
không đột ngột. Ranh giới thềm - sườn là nơi địa hình có độ dốc thay đổi đột
ngột và tính phân bậc rõ ràng thể hiện bóng râm trên ảnh và sự kiểm tra tương
đối bằng đường đồng mức và mặt cắt địa chất T65. Độ sâu của ranh giới thềm -
sườn phân bố từ -200 m ở khu vực phía bắc từ 13o đến 12o
vĩ tuyến Bắc, từ -200 đến -500 m ở 12o đến 10o30’ vĩ tuyến
Bắc và từ -500 đến -200 m ở 10o30’ vĩ độ Bắc tới nam vùng nghiên cứu
được ghi nhận theo tài liệu đo sâu của Cmap 93. Theo cách phân chia này, thềm
lục địa trong khu vực hẹp nhất ở 13o vĩ độ Bắc, mở rộng về phía biển
tới 110,2o kinh độ Đông ở 10o30’ vĩ độ Bắc. Từ 10o30’
vĩ độ Bắc tới phía nam, ranh giới thềm - sườn có xu hướng dịch về phía đất liền
tới toạ độ 109o kinh độ Đông ở 8o vĩ độ Bắc. Về tổng thể,
thềm lục địa Nam Trung Bộ có xu hướng mở rộng từ phía bắc xuống phía nam.
Vùng sườn lục địa và
quần đảo được nhận biết trên ảnh viễn thám bằng sự phân dị địa hình đáy biển và
các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Về ranh giới của nó với vùng chân lục địa
không phân định được trên ảnh mà phân định một cách tương đối dựa vào độ dốc địa
hình, mà cơ sở là tài liệu đo sâu của Cmap 93 và đường đồng mức. Kết quả cho
thấy vùng sườn lục địa và quần đảo có ranh giới trong là thềm lục địa và ranh
giới ngoài nằm ở độ sâu khoảng -2000 m. Ranh giới ngoài được lấy ở độ sâu -2000
m do đây là nơi đường đồng mức thay đổi từ mau sang thưa, hay độ dốc địa hình từ
dốc sang thoải rất phổ biến ở khu vực phía bắc và phía nam. Sự hạn chế khi xác
định ranh giới theo tiêu chí này là độ dốc địa hình khu vực từ 10o
đến 11o vĩ độ Bắc không tuân theo quy luật từ dốc sang thoải, nhưng ở
đây có tính phân bậc địa hình rất rõ ràng. Kết quả phân định cho thấy vùng sườn
lục địa và quần đảo có xu thế mở rộng từ bắc tới nam vùng nghiên cứu với đặc
điểm địa hình phân dị thể hiện ở dạng đồi ngầm và các đảo phát triển trên địa
hình nghiêng. Khu vực phía bắc của sườn hẹp và có đặc điểm độ dốc rất lớn và
mang tính liên tục; khu vực từ 10o đến 11o vĩ độ Bắc thể
hiện độ dốc địa hình thay đổi không liên tục: dốc đột ngột ở ranh giới phía lục
địa, nhưng lại rất thoải về phía biển trước khi dốc đột ngột ở ranh giới giữa nó
với chân lục địa. Khu vực phía nam của vùng có độ dốc tương đối ổn định, đặc
điểm địa hình phân dị thể hiện ở những hình dạng kiểu đồi, núi ngầm và các đường
phân cắt. Tây nam vùng là khu vực quần đảo Trường Sa, địa hình có tính chất phân
dị rất mạnh thể hiện ở những đồi và núi ngầm bên cạnh những rãnh nước sâu, cục
bộ sâu tới -4000 m. Nơi nhô cao nhất là khu vực đảo Trường Sa với xu thế địa
hình thoải về hai phía tây bắc và đông nam.
Vùng chân lục địa được
xác định bằng ảnh viễn thám và tài liệu đo sâu. Việc xác định ranh giới chân và
sườn lục địa như đã trình bầy ở trên. Ranh giới giữa chân lục địa và biển sâu
được xác định bằng ảnh viễn thám dựa trên sự khác biệt của địa hình và dấu hiệu
bóng râm do hiện tượng bóng đổ. Tài liệu đo sâu cho thấy địa hình của chân lục
địa nằm ở độ sâu từ -2000 đến -3500 m với đặc điểm địa hình phân dị mạnh, thể
hiện ở dạng núi ngầm với độ chênh cao phần lớn trên 500 m và sự phân cắt địa
hình.
Vùng biển sâu được xác
định hầu hết bằng ảnh viễn thám và độ sâu cung cấp bởi Google. Vùng này phân bố
ở độ sâu trên -3000 m, phổ biến trên -3500 m. Trên ảnh, đáy vùng biển sâu thể
hiện dạng bề mặt địa hình khá bằng phẳng và ít bị phân cắt.
Về cấu trúc, trên ảnh
image@2005 EarthSat (Hình
3) tương ứng với tầm nhìn từ độ cao
710,9 km xuống Biển Đông, dựa vào các yếu tố dạng đường và kiểm
nghiệm bằng mặt cắt địa vật lý VOR-93-105 (Hình 4) có thể vạch được vị trí đứt
gãy dọc kinh tuyến 110o dài
110, 5 km (Hình 3).
Hình 3. Ảnh image@2006 Europa Technologies |
Hình 4. Mặt cắt địa vật lý VOR-93-105 |
III. NGHIÊN CỨU ĐỊA
MẠO Ở MỨC ĐỘ TRUNG BÌNH
Mục tiêu nghiên cứu địa
mạo ở mức độ này nhằm chính xác hoá hình dạng các yếu tố địa hình đáy biển như
các trũng, các bãi và các đảo phân bố ở độ sâu từ 0 đến -30 m nước. Để phục vụ
mục tiêu này, chúng tôi sử dụng ảnh image@2005.EarthSat chụp vào tháng 11/2005 (Hình 5) (khi đó
là mùa khô), tài liệu đo sâu Cmap 93, tài liệu đo sâu của Google, bản đồ địa hình tỷ lệ 1: 200.000 và bản đồ địa hình tỉ lệ 1:
500.000.
Trước đây, việc thành
lập đường đồng mức địa hình tỷ lệ 1: 200.000 ở độ sâu 0 đến -30 m nước được dựa
trên cơ sở các tuyến đo sâu hồi âm cách nhau 5 km, gần bờ là 2,5 km và phương
pháp nội suy tuyến tính giữa các điểm đo sâu 5x5 km. Với phương pháp đó, hình
dạng địa hình giữa các điểm nội suy có khi chưa phản ánh đúng hình dạng địa hình
thật của đáy biển.
Việc phân tích hình
thái địa hình đáy biển được dựa trên ảnh vệ tinh kết hợp với các điểm đo sâu của
chính các bản đồ đó và bổ sung tài liệu đo sâu của Cmap 93 cùng với tài liệu đo
sâu cung cấp bởi Google. Kết quả phân tích cho thấy các hình
thái địa hình đáy biển ven bờ 0 đến -30 m nước ở khu vực từ Vũng Tàu đến Mũi Né
(Hình 6) về cơ bản là trùng khớp với tài liệu bản đồ độ sâu thành lập năm 1991
và 2001 của Trung tâm Địa chất Khoáng sản biển, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt
Nam [4]. Điều này khẳng định có thể dùng ảnh vệ tinh để nghiên cứu địa hình, địa
mạo đáy biển vùng nước nông.
Hình 5. Kết quả phân tích địa hình trên ảnh image@2005.EarthSat
Tuy nhiên, giữa các tài
liệu trên cũng có sự khác biệt vì lý do kỹ thuật nội suy đã nêu. Sự khác biệt đó
được nhận biết qua việc tiến hành chập các bản đồ ở những tỷ lệ khác nhau lên
trên nền ảnh viễn thám. Tất cả các điểm chập tọa độ trên bản đồ cũng như trên
ảnh đều được chuyển đồng nhất về một hệ tọa độ.
Việc chập bản đồ và
biên tập được thực hiện nhờ phần mềm Mapinfor.
Kết quả chồng bản đồ (Hình 6) đã cho thấy mặc dù đúng về vị trí nhưng có sự sai
khác khá nhiều về hình thái bề mặt địa hình đáy biển như khu vực Hòn Lao, vịnh
Phan Thiết, mũi Kê Gà, bãi cạn Britô, vịnh Ba Kiềm cổ, bãi cạn Ba Kiềm, vịnh
Vũng Tàu cổ và bãi cạn Vũng Tàu.
Trên cơ sở các tài liệu
đã nêu, kết hợp với phương pháp phân tích xu thế địa hình và kiểm tra bằng độ
sâu do Google cung cấp, các tác giả đã hiệu chỉnh lại bản đồ địa hình 1:200.000
và 1: 500.000 đã vẽ trước đây tại khu vực từ Hòn Lao tới Vũng Tàu. Kết quả được
thể hiện trên Hình 6. Trên hình này ta nhận thấy địa hình khu vực Hòn Lao, hai
bên vịnh Phan Thiết, mũi Kê Gà và bãi cạn Hàm Tân có dạng các lưỡi cát nhô ra
biển tới độ sâu -20 m thậm chí -25 m có xu hướng vát nhọn và uốn cong về hướng
đông bắc. Tây nam vịnh Ba Kiềm cổ là nơi địa hình lượn sóng có trục phát triển
song song với đường bờ. Những vị trí nêu trên là nơi địa hình không thể hiện rõ
trên bản đồ địa hình đáy biển tỷ lệ 1:200.000 và 1: 500.000 đã đo vẽ trước đây
[4].
Hình 6. Hình thái địa hình đáy biển
từ Hòn Lao tới Vũng Tàu
được xác lập từ kết quả chập và hiệu chỉnh bản đồ địa hình
Như vậy, phân tích ảnh
vệ tinh đáy biển giúp ích cho công tác đo vẽ và hiệu chỉnh bản đồ đẳng sâu đáy
biển trong thời gian tới.
IV. NGHIÊN CỨU ĐỊA MẠO Ở MỨC ĐỘ CHI TIẾT
Để nghiên cứu địa mạo
thềm lục địa Nam Trung Bộ chi tiết hơn, trong phương pháp này sử dụng ảnh viễn
thám có độ phân giải cao từ 2 đến 5 m do Google cung cấp bao gồm
image@2006.DigitalGloble và
image @2006.NASA (từ Hình 7 đến
Hình 11). Các ảnh được chụp vào mùa khô ở vị trí tương ứng với độ cao từ 5 đến
12 km xuống mặt nước biển. Kết quả phân tích cho thấy rõ các sóng cát (Hình 7)
các dấu hiệu trượt với quy mô chiều ngang khối trượt lên tới trên 2 km xuất hiện
phía bắc cảng Cam Ranh (Hình 8); những vết nứt phương tây bắc - đông nam thể
hiện trên địa hình tại cửa sông Cái (Hình 9) nơi đới trượt Tuy Hòa đi qua và các
sóng cát trong vịnh Nha Trang (Hình 10).
Đặc biệt, bề mặt địa
hình khu vực mỏ Rubi cũng được thể hiện các sóng cát ngầm phân bố dọc theo
phương có trục đông bắc - tây nam. Điều đáng chú ý là vị trí mỏ này có độ sâu
tới -40 m. Ở độ sâu này, các công trình trước đây nghiên cứu hình thái địa hình
ở những độ sâu như vậy chỉ được thu thập tài liệu bằng quay camera hoặc đo sâu
quét sườn rất tốn kém và thậm chí rất nguy hiểm.
Hình 7.
Địa hình gợn sóng và vết nứt |
Hình 8.
Nứt trượt trầm tích đáy biển Bắc Cam Ranh |
Hình 9.
Vết nứt tại cửa sông Cái, Nha Trang |
Hình 10.
Vết nứt và địa hình gợn sóng trong vịnh Nha Trang |
|
|
Hình 11. Địa hình gợn sóng khu mỏ Rubi |
V. KẾT LUẬN
Áp dụng phương pháp
phân tích ảnh viễn thám có độ phân giải khác nhau kết hợp với bản đồ đẳng sâu và
sự phân bố trầm tích cho phép nghiên cứu địa mạo đáy biển ở khu vực Tây Nam Biển
Đông từ mức độ khu vực đến chi tiết.
- Sử dụng
ảnh viễn thám độ phân giải thấp kết hợp với tài liệu đo sâu trong nghiên cứu địa
mạo đáy biển cho phép phân chia địa hình đáy biển thành 4 vùng địa mạo như thềm,
sườn, chân lục địa và đáy biển sâu.
- Sử dụng ảnh viễn thám
độ phân giải trung bình (100 đến 200m) trong nghiên cứu địa mạo đáy biển có thể
xác định sự phân bố các kiểu địa hình và kết quả này góp phần hiệu chỉnh các bản
đồ địa hình tỉ lệ 1: 200.000 và 1: 500.000.
- Sử dụng ảnh viễn thám
có độ phân giải từ 2 đến 5 m trong nghiên cứu địa mạo ở mức độ chi tiết cho phép
chỉ rõ hình thái thành phần địa hình và dự báo các tiềm ẩn tai biến địa chất
liên quan.
Kết quả nghiên cứu cho
phép khẳng định phương pháp viễn thám hoàn toàn có thể sử dụng có hiệu quả trong
nghiên cứu địa mạo biển Việt Nam
VĂN LIỆU
1. Mai Thanh Tân, Phạm Văn Tỵ, 2002. Đặc điểm địa chất công trình thềm lục địa
Việt Nam. TC Khoa học và Công nghệ biển, 2: 1-12, Hà
Nội.
2. Mai Thanh Tân và nnk, 2003. Biển Đông. Phần III. Địa chất - Địa vật lý biển.
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Mai Thanh Tân và nnk, 2004. Nghiên cứu đặc điểm địa chất - địa chất công trình vùng đông nam thềm lục
địa Việt Nam phục vụ chiến lược phát triển kinh tế và xây dựng công trình biển. Đề tài Mã số KC 09.09, Bộ Khoa học & Công nghệ và Trường đại học Mỏ -
Địa chất, Hà Nội.
4. Nguyễn Biểu (Chủ biên), 2001.
Kết quả điều tra địa chất và khoáng sản biển nông ven bờ 0-30 m nước Việt Nam tỷ
lệ 1/500.000 (1991-2001). Lưu trữ Địa
chất, Cục ĐC&KSVN, Hà Nội.
5. Nguyễn Biểu, Mai Thanh Tân, Trịnh Thế Hiếu, 2003. Các thành tạo Đệ tứ vùng thềm lục địa đông
nam Việt Nam và ý nghĩa nghiên cứu địa chất công trình. TTBC
HNKH Công trình và Địa chất biển, Đà Lạt, tr. 16-30.
6. Nguyễn Biểu, Mai Thanh Tân,
2005. Địa tầng trầm tích
Pliocen - Đệ tứ và bản đồ địa chất tầng nông đông nam thềm lục địa Việt Nam. TTBC HNKH 60 năm Địa chất Việt Nam, tr. 7-16, Cục ĐC&KSVN, Hà Nội.
7. Nguyễn Thế Tiệp, Lê Đức An và nnk, 2000. Bản đồ địa mạo vùng
biển Việt
8. Nguyễn Tiến Hải, Nguyễn Huy Phúc, Nguyễn Trung
Thành, 2005. Trầm tích bề mặt
đáy biển Nam Trung Bộ và sự tiến hóa của chúng.
Địa chất và địa vật lý biển,
VIII: 166-178, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Tạc, Trịnh Phùng, 1992.
Một vài kết quả nghiên cứu địa mạo phần phía Nam thềm lục địa Việt Nam. Tuyển tập Nghiên cứu biển, IV: 100-114. Nha
Trang.
10. Schimanski A., 2002. Holocene Sedimentation on the Vietnamese Shelf: From Source To Sink. Tóm tắt luận án Tiến sĩ. Christian Universitat zu
11. Trần Nghi và nnk, 2003.
Sự thay đổi mực nước biển trên cơ sở nghiên cứu trầm tích vùng ven biển
và biển nông ven bờ từ Nha Trang đến Bạc Liêu.
TTBC HNKH Công trình và Địa chất biển, Đà Lạt, tr.181-189.
12. Trần Nghi, Mai Thanh Tân, Đinh Xuân Thành, Nguyễn
Thanh Lân, Trần Thị Thanh Nhàn, 2005. Đặc điểm tướng đá, cổ địa lý và lịch sử
phát triển địa chất Pliocen - Đệ tứ thềm lục địa Đông Nam Việt Nam. TTBCHNKH 60 năm Địa chất Việt Nam, tr.140-154. Cục ĐC&KSVN, Hà Nội.