ĐẶC ĐIỂM
THÀNH PHẦN HOÁ HỌC CỦA RUBI VÀ SAPHIR TRONG MỘT SỐ LOẠI HÌNH NGUỒN GỐC Ở VIỆT
NAM
PHẠM VĂN
LONG1, VIRGINIE GARNIER2, GASTON GIULIANI2,
DANIEL OHNENSTETTER2, DIETMAR SCHWARZ3
1Trung tâm Nghiên cứu - Kiểm định đá quý và
vàng, 91 Đinh Tiên Hoàng, Hà Nội
2UPR 2300 CRPG/CNRS, BP 20, 54501 Vandœuvre, Pháp
3Gubelin Gemmological Laboratory, Maihofstrasse 102, 6000 Lucerne 9,
Thuỵ Sĩ
Tóm tắt: Bài báo trình bày những kết quả nghiên cứu đặc điểm
thành phần hoá học của rubi và saphir ở một số vùng mỏ của Việt Nam. Các kết quả
nghiên cứu cho thấy chúng liên quan tới các thành tạo đá hoa thường có hàm lượng
Cr2O3 cao, đồng thời các tương quan giữa Cr2O3
với Fe2O3,
TiO2 là tương quan nghịch, và tương quan giữa Cr2O3
với V2O5 là tương quan thuận. Saphir thành tạo liên quan
với đá bazan, đặc trưng bởi hàm lượng cao của Fe2O3 và
tương quan giữa Fe2O3 với TiO2 thường là tương
quan thuận. Trên cơ sở đặc điểm thành phần của các nguyên tố, có thể xây dựng
biểu đồ trường phân bố của rubi và saphir dựa trên tương quan của các tỷ số Cr2O3/Ga2O3
và Fe2O3/TiO2.
MỞ ĐẦU
Nghiên cứu đặc điểm thành phần hoá học của rubi và saphir có một ý nghĩa
quan trọng trong việc luận giải điều kiện thành tạo và nguồn gốc của chúng.
Thành phần hoá học không những quyết định đến màu sắc cũng như các tính chất vật
lý và quang học của rubi và saphir, mà chúng còn phản ánh tính chất hoá lý của
môi trường thành tạo và mối quan hệ của chúng với đá vây quanh.
Trong bài báo này, các tác giả phân tích một cách chi
tiết và có hệ thống thành phần của rubi và saphir ở các vùng mỏ khác nhau và
trong các loại hình nguồn gốc khác nhau, như sa khoáng và trong đá gốc, để từ đó
làm cơ sở cho việc phân biệt các kiểu nguồn gốc khác nhau của chúng.
I. ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ CỦA RUBI VÀ SAPHIR
1. Các mỏ và điểm quặng rubi và saphir ở miền Bắc
Đại diện cho các mỏ và điểm quặng rubi và saphir ở miền Bắc là các mỏ rubi
và saphir liên quan đến đá hoa vùng Lục Yên và Quỳ Châu. Các mỏ rubi và saphir
vùng Yên Bái gồm các mỏ Tân Hương, Trúc Lâu, các điểm quặng Tân Đồng, Ba Bể và
một số khu vực khác. Đại diện cho các mỏ và điểm quặng saphir miền Nam là các mỏ
saphir liên quan với các đá bazan vùng Tây Nguyên.
Tại Lục Yên, rubi và saphir thương phẩm chủ yếu được khai thác trong các
thành tạo sa khoáng liên quan tới các hố sụt karst. Các điểm rubi và saphir gốc
được phát hiện trong các trầm tích biến chất cao có tuổi cổ thuộc đới Lô - Gâm
tại Bãi Đá Lăn, An Phú, Minh Tiến, Nước Ngập, Khoan Thống. Trong đá gốc, rubi có
dạng lăng trụ sáu phương tháp cụt, tang trống, màu đỏ sắc hồng, kích thước thay
đổi từ 1,5 đến 30 mm, từ bán trong đến trong. Saphir dạng lăng trụ sáu phương,
dạng thùng có màu lam loang lổ, hồng tím,... Rubi gốc trong đá hoa phân bố cùng
với phlogopit, margarit, pyrit và graphit.
Vùng mỏ rubi Quỳ Châu phát triển trên cấu trúc vòm nâng Bù Khạng cũng liên
quan tới các thành tạo biến chất có tuổi cổ và giàu nhôm. Tại đây, rubi được
khai thác chủ yếu trong các thành tạo eluvi, đeluvi khu Đồi Tỷ, Đồi Triệu, Bản
Gié,.... Rubi gốc được phát hiện trong đá hoa tại ranh giới giữa đồi Mồ Côi và
đồi Tỷ. Đá hoa bao gồm chủ yếu là calcit màu xám trắng, hạt nhỏ chứa rubi,
phlogopit, graphit. Tại Quỳ Châu, chủ yếu gặp rubi và saphir hồng, còn saphir
lam và saphir các màu khác hiếm gặp hơn. Rubi Quỳ Châu thường có màu đỏ phớt tím
với độ bão hoà màu cao và rất được ưa chuộng trên thị trường.
Tại Tân Đồng, gặp đá gốc chứa tổ hợp khoáng vật saphir,
margarit, plagioclas, được coi là liên quan tới các hoạt động biến chất trao
đổi.
Tại Ba Bể, gặp saphir lam nhạt và không màu trong các thân
pegmatit xuyên cắt các thành tạo đá phiến hoặc đá hoa. Các tinh thể saphir ở đây
thường đục và không có giá trị thương phẩm.
2. Các mỏ và điểm quặng saphir miền Nam
Các mỏ saphir liên quan đến các thành tạo bazan phát triển chủ yếu ở miền
Nam Việt Nam với các cụm mỏ như Ngọc Yêu (bắc Kon Tum), Ea Hleo (Buôn Ma Thuột),
Đăk Nông (Đăk Lăk), Tiên Cô, Sơn Điền, Sa Võ (Lâm Đồng), Ma Lâm, Đá Bàn (Bình
Thuận). Tại các vùng trên, saphir phân bố chủ yếu trong các thành tạo sa khoáng.
Saphir ở đây thường có màu xanh đen thẫm (saphir đen), xanh lục, xanh nước biển,
xanh lục vàng,...ở dạng mảnh vỡ, tinh thể bị mài tròn với các kích thước khác
nhau. Tại Đá Bàn, gặp các tinh thể saphir ban tinh trong đá gốc là bazan kiềm.
II. ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHẦN HOÁ HỌC
1. Rubi và saphir ở các mỏ Lục Yên và Quỳ Châu
Kết quả phân tích thành phần hoá học của rubi và saphir liên quan với các
thành tạo đá hoa trên hai vùng mỏ Lục Yên và Quỳ Châu giúp phát hiện được một tổ
hợp nguyên tố phụ rất phong phú, bao gồm chrom, sắt, silic, titan, vanađi,
mangan, magnesi, calci, gali, germani, scanđi và kẽm. Trên cả hai vùng mỏ thì
các oxit tạo màu chính và có hàm lượng trội hơn cả là Cr2O3, Fe2O3
và TiO2.
Ở Lục Yên, hàm lượng Cr2O3 dao động trong khoảng
0-2,080%, trung bình: 0,227%; Fe2O3 dao động trong khoảng
0-0,420%, trung bình: 0,083%; TiO2 trong khoảng 0-0,230%, trung bình:
0,050%. Các oxit khác ít phổ biến hơn và thường có hàm lượng thấp hơn, như CaO
trung bình: 0,043%; MgO trung bình: 0,021%; V2O5
trung bình: 0,011%;...
Trong rubi và saphir ở Quỳ Châu, hàm lượng các oxit cũng có những sự khác
biệt. Hàm lượng Cr2O3 dao động trong khoảng 0-2,566%,
trung bình: 0,295%; hàm lượng Fe2O3 khoảng 0-2,08%, trung
bình: 0,086%; hàm lượng TiO2 khoảng 0-0,230%, trung bình: 0,045%; CaO
trung bình: 0,075%; MgO trung bình: 0,026%; V2O5
trung bình: 0,013%,...
Rubi gốc trong đá hoa vùng mỏ Lục Yên được đặc trưng bởi hàm lượng Cr2O3
và MgO cao (tương ứng là 0,660% và 1,970%) (Bảng 1); các hàm lượng Fe2O3 và
TiO2 thấp (tương ứng là 0,040% và 0,050%). Hàm lượng cao của MgO
chứng tỏ mối liên quan chặt chẽ với các đá hoa đolomit trong khu vực. Trên biểu
đồ trường phân bố (Hình 5), rubi gốc trong đá hoa phân bố ở một vùng riêng biệt
với tỷ số Cr2O3/Ga2O3 cao, đồng thời
trường phân bố của rubi trong đá gốc và trong sa khoáng phân bố cạnh nhau, điều
đó có thể lý giải nguồn cung cấp chủ yếu rubi cho sa khoáng là các thành tạo gốc
trong đá hoa.
Như vậy, khi xem xét đặc tính của 3 oxit tạo màu chính là Cr2O3, Fe2O3
và TiO2 ở hai vùng mỏ Lục Yên và Quỳ Châu, ta thấy Cr2O3
luôn chiếm ưu thế cả về đặc điểm phân bố và hàm lượng, tiếp đến là Fe2O3 và
TiO2. Trên cả hai vùng, hàm lượng Cr2O3 cực đại
nhiều khi đạt đến một vài % và hàm lượng cực đại của Cr2O3
ở Quỳ Châu cao hơn so với hàm lượng cực đại của Cr2O3 ở
Lục Yên.
Hình 1. Biểu đồ tương quan giữa Cr2O3 và Fe2O3
trong rubi và saphir liên quan với đá hoa
Hình 2. Biểu đồ tương quan giữa Cr2O3 và V2O5
trong rubi và saphir liên quan với đá hoa
Khi xem xét mối tương quan của Cr2O3 với Fe2O3
trong rubi và saphir liên quan với các thành tạo đá hoa, ta thấy hàm lượng Cr2O3
thường trội hơn so với hàm lượng Fe2O3
(0,295% so với 0,086% ở Quỳ Châu và 0,227% so với 0,083% ở Lục Yên) (Bảng
1) và tương quan giữa Cr2O3 và Fe2O3
trên cả hai vùng là tương quan nghịch (Hình 1), điều đó dẫn đến kết quả là trên
cả hai vùng mỏ, rubi và saphir hồng chiếm tỷ lệ cao hơn so với saphir lam và
saphir các màu khác.
So với các nguyên tố khác thì hàm lượng V2O5 thường
thấp hơn và chênh nhau không đáng kể ở cả hai vùng mỏ (trung bình: 0,011% ở Lục
Yên và 0,013% ở Quỳ Châu). Tuy nhiên, V2O5 là nguyên tố
tạo màu tím và sự có mặt của chúng cũng ảnh hưởng đáng kể đến màu sắc của rubi
và saphir. Khi xem xét tương quan giữa Cr2O3
và V2O5, ta thấy chúng thể hiện mối tương quan thuận chặt
chẽ (Hình 2). Như vậy, có thể thấy rằng V2O5 thường đi
cùng với Cr2O3 và đã làm cho màu đỏ của rubi ở cả hai mỏ
thường có ánh phớt tím.
Hàm lượng trung bình của Fe2O3 và
TiO2 trong rubi và saphir Quỳ Châu và Lục Yên gần như tương đồng
(0,086% ở Quỳ Châu và 0,083% ở Lục Yên đối với Fe2O3 và
0,045% ở Quỳ Châu và 0,050% ở Lục Yên đối với TiO2) (Bảng 1). Trên cả
hai vùng mỏ, nếu không xét đến những mẫu có hàm lượng tăng đột biến, thì hàm
lượng Fe2O3 phân bố tương đối đồng đều. Khi xem xét tương
quan của Fe2O3 với TiO2 ta thấy, trên cả hai
vùng mỏ, tương quan giữa Fe2O3 với TiO2 là
thuận và hai nguyên tố này liên quan chặt chẽ với nhau (Hình 3).
Hình 3. Biểu đồ tương quan giữa Fe2O3 và TiO2
trong rubi và saphir liên quan với đá hoa
2. Rubi và saphir vùng Tân Hương, Trúc Lâu
Kết quả phân tích thành phần của rubi và saphir vùng Tân Hương và Trúc Lâu
cho thấy, thành phần tạp chất chính là Cr2O3, Fe2O3,
TiO2 và V2O5. Hàm lượng Cr2O3
khá cao, trung bình: 0,355%. Sau Cr2O3 là Fe2O3
cũng thường có mặt trong thành phần của rubi và saphir Tân Hương, Trúc Lâu với
hàm lượng trung bình 0,339%. Tại mỏ Trúc Lâu, so với Cr2O3
thì hàm lượng Fe2O3 thường thấp hơn, tuy nhiên về đặc điểm
phân bố thì chúng lại phổ biến hơn và có mặt trong hầu hết các mẫu nghiên cứu.
Sự phổ biến của Fe2O3 trong thành phần corinđon Trúc Lâu
giải thích sự chiếm ưu thế của saphir so với rubi. Tiếp theo Fe2O3, TiO2
cũng thường có mặt trong rubi và saphir Tân Hương, Trúc Lâu với hàm lượng trung
bình là 0,178% (Bảng 1).
Rubi và saphir trong các thành tạo gốc vùng Tân Hương và Trúc Lâu có thành
phần khá khác biệt so với rubi và saphir trong sa khoáng (Bảng 1). Tuy nhiên,
trên biểu đồ phân bố thì chúng lại phân bố trùng nhau (Hình 5, 6). Từ đó, có thể
đi đến nhận định là rubi và saphir trong sa khoáng có chung kiểu nguồn gốc với
các thành tạo gốc kế cận.
Trên biểu đồ trường phân bố, saphir gốc các vùng Ba Bể, Trúc Lâu và Km 15
lại phân bố trùng nhau và chúng nằm trùng với trường phân bố của rubi và saphir
trong các thành tạo gốc là gneis và amphibolit, với tỷ số Cr2O3/Ga2O3
nhỏ hơn 1 và tỷ số Fe2O3/TiO2 lớn hơn 100.
Saphir trong đá biến chất vùng Tân Đồng phân bố ở một vùng riêng biệt với hai tỷ
số trên đều rất thấp (Hình 5).
Bảng 1. Hàm
lượng trung bình của rubi và saphir trong sa khoáng và đá gốc
ở một số mỏ và điểm quặng khác nhau
SA KHOÁNG |
|||||||||||||
Oxit |
Miền Bắc Việt Nam |
Miền Nam Việt Nam |
|||||||||||
Quỳ Châu |
Quỳ Hợp |
Lục Yên |
Tân Hương |
Trúc Lâu |
Đăk Nông |
Bình Thuận |
|||||||
Rubi |
Saphir lam |
Rubi |
Rubi |
Saphir |
Saphir lam |
Saphir lục |
Saphir đen |
||||||
TiO2 |
0,045 |
0,348 |
0,050 |
0,178 |
0,243 |
0,035 |
0,022 |
0,048 |
|||||
Al2O3 |
99,460 |
99,445 |
99,330 |
99,490 |
99,450 |
100,433 |
100,697 |
98,14 |
|||||
Cr2O3 |
0,295 |
- |
0,227 |
0,355 |
0,356 |
0,001 |
0,010 |
- |
|||||
Fe2O3 |
0,086 |
0,933 |
0,083 |
0,086 |
0,256 |
1,338 |
0,754 |
2,040 |
|||||
V2O3 |
0,013 |
- |
0,011 |
- |
0,049 |
0,001 |
0,001 |
- |
|||||
Ga2O3 |
0,007 |
0,008 |
0,009 |
- |
- |
0,028 |
0,024 |
0,028 |
|||||
CaO |
0,075 |
- |
0,043 |
- |
- |
- |
- |
- |
|||||
MgO |
0,026 |
- |
0,021 |
- |
- |
0,004 |
0,003 |
0,006 |
|||||
Tổng |
100,007 |
100,734 |
99,774 |
100,109 |
100,354 |
101,84 |
101,511 |
100,262 |
|||||
ĐÁ GỐC |
|||||||||||||
Oxit |
Lục Yên
|
Yên Bái
|
Ba Bể
|
||||||||||
Đá hoa Lục Yên |
Đá biến chất Tân Đồng |
Amphibolit Tân Hương |
Pegmatit Trúc Lâu |
Pegmatit Ba Bể |
|||||||||
Rubi |
Saphir lam |
Saphir lam |
Saphir lam |
Saphir lam |
|||||||||
TiO2 |
0,050 |
0,190 |
- |
0,010 |
- |
||||||||
Al2O3 |
97,330 |
99,310 |
99,040 |
99,190 |
99,900 |
||||||||
Cr2O3 |
0,660 |
- |
0,010 |
- |
- |
||||||||
Fe2O3 |
0,040 |
0,670 |
0,940 |
1,310 |
0,440 |
||||||||
V2O3 |
0,040 |
- |
- |
- |
- |
||||||||
Ga2O3 |
0,010 |
0,030 |
0,010 |
0,020 |
0,020 |
||||||||
MgO |
1,970 |
0,010 |
- |
- |
- |
||||||||
ZnO |
0,020 |
- |
- |
- |
- |
||||||||
Tổng |
100,120 |
100,210 |
100,010 |
100,530 |
100,360 |
||||||||
3. Saphir liên quan với đá bazan
Saphir liên quan với các thành tạo đá bazan miền Nam
được phát hiện và khai thác trong sa khoáng ở các vùng Di Linh (Lâm Đồng), Đăk
Nông (Đăk Lăk), Ma Lâm, Đá Bàn (Bình Thuận)... Về đặc điểm, saphir ở đây với các
tinh thể có kích thước khác nhau, từ 0,4 đến 4 cm chiều dài, 0,2-1 cm đường
kính. Hầu hết chúng đều có màu lam, lam phớt lục sẫm, rất sẫm, nhiều khi đen
(saphir đen). Saphir vàng cũng gặp, nhưng rất hiếm. Các tinh thể thường bán
trong đến đục, tỷ lệ các tinh thể trong suốt để mài hàng trang sức rất thấp.
Hình 4. Biểu đồ tương quan giữa Fe2O3 và TiO2
trong saphir liên quan với đá bazan
Hình 5. Đặc tính phân bố của rubi và saphir
trong đá gốc theo tỷ lệ Cr2O3/Ga2O3
và Fe2O3/TiO2
Kết quả phân tích các mẫu saphir miền Nam có màu sắc khác nhau giúp phát
hiện các nguyên tố sắt, silic, titan, gali và vanađi, trong đó Fe2O3
hoàn toàn chiếm ưu thế và có hàm lượng trội hơn cả, với hàm lượng trung bình
khoảng 1,338%. Saphir có màu lam đậm gần như sẫm ở vùng Bình Thuận thường có hàm
lượng Fe2O3 rất cao, trung bình: 2,040% (Bảng 1). Cùng với
Fe2O3,
TiO2 cũng thường xuyên có mặt, nhưng hàm lượng thường thấp hơn, hàm
lượng trung bình của TiO2 khoảng 0,035%. Khi xem xét mối tương quan
giữa Fe2O3 và TiO2 trong saphir miền Nam, ta
thấy chúng có mối tương quan thuận khá chặt chẽ (Hình 4). Sự kết hợp của Fe2O3 và TiO2
trong corinđon là nguyên nhân tạo màu lam của saphir nói chung và của saphir
miền Nam nói riêng. Ở đây, chính sự chiếm ưu thế của Fe2O3
trong thành phần và với hàm lượng tương đối cao đã chứng tỏ sự chiếm ưu thế của
saphir với màu thường gặp từ lam đến lam sẫm. Bên cạnh các oxit chính ở trên thì
trong saphir miền Nam còn gặp các nguyên tố ở dải hàm lượng thấp hơn như U, Th,
Ta, Sc, Zc [3].
Hình 6. Đặc tính phân bố của rubi và saphir trong sa
khoáng
theo tỷ lệ Cr2O3/Ga2O3
và Fe2O3/TiO2
Trên biểu đồ trường phân bố thì saphir liên quan với bazan phân bố ở một
khu vực riêng biệt so với rubi và saphir thuộc các kiểu nguồn gốc khác. Saphir
miền Nam thường có tỷ số Fe2O3/TiO2 cao và tỷ
số Cr2O3/Ga2O3 thấp (Hình 6).
BÀN LUẬN VÀ KẾT LUẬN
- Khi đối sánh thành phần của rubi và saphir ở một số vùng khác nhau, ta
thấy rubi và saphir Lục Yên và Quỳ Châu thường có hàm lượng Cr2O3
trội hơn cả. Saphir liên quan tới bazan miền Nam Việt Nam với sự chiếm ưu thế
của Fe2O3 thường có màu lam đến lam sẫm, lục hoặc lam phớt
lục, đôi khi ta cũng gặp saphir có màu vàng phớt lục. Trên biểu đồ tỷ lệ, rubi
và saphir hồng Lục Yên và Quỳ Châu trong sa khoáng phân bố trong một vùng riêng
biệt, trùng với vùng phân bố của rubi trong đá gốc là đá hoa. Từ đó có thể khẳng
định các thành tạo trong đá hoa là nguồn cung cấp rubi chính cho sa khoáng liền
kề. Saphir miền Nam Việt Nam phân bố trong một khoảng riêng biệt với tỷ số Fe2O3/TiO2
cao cho thấy sự chiếm ưu thế của hàm lượng Fe2O3. Một số
mẫu saphir vùng Nghệ An (Quỳ Hợp) cũng có màu lam sẫm hoặc lam lục sẫm với hàm
lượng Fe2O3 rất cao và nằm trùng với vùng phân bố của
saphir miền Nam. Có lẽ nguồn gốc của chúng khác xa so với kiểu nguồn gốc của
rubi và saphir vùng Quỳ Châu; vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu.
- Dựa trên đồ thị tương quan giữa các tỷ số Cr2O3/Ga2O3
và Fe2O3/TiO2 cũng giúp ta phân biệt rubi và
saphir trong các thành tạo gốc khác nhau (Hình 5). Trên đồ thị tương quan, ta
thấy sự tách biệt rõ ràng giữa chúng trong các thành tạo đá hoa và trong các
thành tạo gneis, amphibolit và pegmatit. Ngoại trừ trường hợp của saphir hồng ở
điểm quặng Khe Nhàn nằm trùng với vùng phân bố của rubi và saphir trong đá hoa,
và phải chăng quá trình thành tạo saphir hồng Khe Nhàn cũng liên quan mật thiết
với các thành tạo đá hoa? Điều này cần phải được nghiên cứu tiếp tục để làm rõ.
- Một số loại saphir không màu và saphir dạng
“trapich” vùng Yên Bái phân bố gần trùng với trường phân bố của các thành tạo đá
hoa với tỷ lệ Cr2O3/Ga2O3 thấp và tỷ
lệ Fe2O3/TiO2 gần bằng 1. Saphir ở đây không
quan sát được trong đá gốc, nhưng chúng cũng không có nguồn gốc từ gneis,
amphibolit hoặc pegmatit. Nguồn gốc của chúng còn là một vấn đề bỏ ngỏ và cần
đầu tư để nghiên cứu tiếp tục. Cũng trên đồ thị tương quan, saphir màu hồng và
màu tím vùng Trấn Yên phân bố trùng với trường phân bố của rubi và saphir trong
đá hoa, điều đó gián tiếp cho thấy có lẽ chúng cũng liên quan tới các thành tạo
đá hoa ở đâu đó trong vùng.
VĂN LIỆU
1. Hoàng Sao, Nguyễn Ngọc Khôi, Ngụy
Tuyết Nhung, 2003. Đá quý rubi và saphir Việt Nam và phương pháp xác định,
Thông tin Khoa học Kỹ thuật Địa chất, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Hà
Nội.
2.
Ngụy Tuyết Nhung,
1998. Rubi và saphir và các đá bán quý
vùng mỏ Yên Bái. TC Địa chất, A/245 :
62-68, Hà Nội.
3.
Nguyễn Hoàng, Flower M., Phạm Tích Xuân, 1996. Thạch luận bazan
Kainozoi muộn Việt Nam. Công trình kỷ niệm 20 năm thành lập Viện Địa chất, 1 : 142-155. Viện Địa
chất, Hà Nội.
4.
Nguyễn Kinh Quốc, Phạm Trung Lượng, Nguyễn Đại Trung, Hồ Hữu Hiếu, 1995. Tiềm năng đá quý
Việt Nam. Địa chất, khoáng sản, dầu khí VN, 2 :
143-152. Hà Nội.
5.
Phạm Văn Long, 2003. Nghiên cứu đặc điểm tinh thể khoáng vật học và ngọc
học của rubi, saphir ở hai vùng mỏ Lục Yên (Yên Bái) và Quỳ Châu (Nghệ An). Luận
án Tiến sĩ Địa chất. Đại học Khoa học Tự
nhiên, Hà Nội.
6.
Pham Van Long, Hoang Quang Vinh, Virginie Garnier, Gaston Giuliani, Daniel
Ohnenstetter, 2004. Marble-hosted
ruby from Vietnam. The Canadian
Gemmologist, 25/3 : 83-95.