Vũ Tất Tuân, Nguyễn Tiến
Thành, Lê Văn Đức, Vũ Ngọc Tuyên
Liên đoàn
Địa chất và Khoáng sản biển
Tác giả
liên hệ: vutattuanbtnm@gmail.com
Tóm tắt: Vùng biển Đông Nam Bộ (0-200m nước) có mặt 11
trường trầm tích, chủ yếu là trường trầm
tích hạt thô như: sạn cát- sG; cát sạn- gS; cát lẫn sạn- (g)S; cát- S; cát bột- siS. Tổng diện
tích phân bố khoảng 20.000km2, tập
trung từ 0 đến 100 m nước, trong đó khu vực đới bờ hiện
đại, băi triều cổ, ḷng sông cổ,
đường bờ cổ ở độ sâu 25- 35m
nước và 50-60m nước có triển vọng về sa
khoáng và khoáng sản vật liệu xây dựng. Kết quả
nghiên cứu đă khoanh định được 05 vùng
triển vọng sa khoáng, phân bố ở độ sâu 0-
70m nước, hàm lượng trung b́nh khoáng vật quặng
có ích (ilmenit, leucoxen, rutil, anataz, zircon, brukit, monazit) trong các
vùng triển vọng từ 400 đến 5042 g/m3,
tài nguyên dự báo khoảng 20 triệu tấn tinh quặng;
07 vùng triển vọng khoáng sản vật liệu xây dựng
phân bố ở độ sâu 5- 70m nước, chiều dày
tầng sản phẩm trung b́nh 6- 7m, thành phần là cát, cát
sạn lẫn ít vụn sinh vật, tài nguyên dự báo khoảng
35 tỷ m3, có khả năng sử dụng trực
tiếp làm vật liệu san lấp hoặc xử lư để làm cốt liệu hạt
nhỏ cho bê tông và vữa.
Từ khóa: Khoáng sản
vật liệu xây dựng; sa khoáng
(Xem toàn văn: Liên
hệ với Tạp chí Địa Chất – Trung tâm Thông
tin, Lưu trữ và Tạp chí địa chất)