ĐẶC ĐIỂM KHOÁNG
HÓA CỦA MỎ VÀNG GÓC TRÀ NĂNG, TỈNH LÂM ĐỒNG
NGUYỄN
KIM HOÀNG1, NGUYỄN VĂN MÀI2
1 Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM, 227 Nguyễn Văn Cừ,
Q.5, Tp. Hồ Chí Minh
2Liên Đoàn Bản đồ
Địa chất miền Nam, 200 Lý Chính Thắng, Q.3, Tp. Hồ
Chí Minh
Tóm tắt: Cấu trúc địa chất chứa các thân quặng
vàng có thành phần thạch học chủ yếu là bột kết,
phiến sét xen ít lớp cát kết màu xám, xám đen
được xếp vào hệ tầng La Ngà bị uốn
nếp với phương của trục nếp uốn
là ĐB-TN. Các thân quặng có dạng mạch, dạng giả
vỉa, mạng mạch, đới mạch; đôi khi dạng
bướu, 0 có thế nằm cam ve Đông Nam hoặc Tây Bắc với
góc dốc 45-7Ơ'. Khoáng vật quặng 10-15%, chủ yếu
là arsenopyrit, pyrìt; thứ yếu là galena, sphalerit,
chalcopyrit. Vàng tồn tại dưới dạng vàng tự
sinh (thế hệ I) và electrum (thế hệ II). Khoáng vật
phi quặng phổ biến nhất là thạch anh (> 80%).
Quặng có cấu tạo dạng xâm tán, dạng mạch, kiến trúc hạt
tự hình, nửa tự hình, tha hình, khung xương và
nhũ tương. Vàng trong các thân quặng phân bố rất
không đồng đều, có hàm lượng Au thay đổi từ
1-2 g/T đến 40-50 g/T. Khoáng hóa vàng có nguồn
gốc nhiệt dịch nhiệt độ trung bình đến
trung bình - thấp liên quan hoạt động magma xâm nhập Mesozoi muộn. Tiến
trình tạo khoáng gồm 3 giai đoạn với 2 tổ hợp
cộng sinh khoáng vật chính: 1) thạch anh I - arsenopyrit I - pyrit I - vàng tự sinh
(305-250°C; 2) thạch anh II - pyrit II - galena - sphalerit -
chalcopyrit - electrum (260-195°C). Khoáng hoá vàng thuộc kiểu mỏ
vàng-thạch anh-sulfur dạng mạch với 2 kiểu khoáng:
vàng - thạch anh - pyrít - arsenopyrit (chính) và vàng - thạch anh - sulfur đa kim (phụ).
So với địa hình hiện tại, mỏ vàng đã bị
bóc mòn địa chất và địa hoá quặng đến
đới giữa quặng, một số nơi đến
phần trên của đới dưới quặng. Như
vậy, có thể đánh giá mỏ vàng gốc Trà Năng vẫn còn triển vọng
lớn.